LỊCH SỬ - VĂN HÓA LỊCH SỬ - VĂN HÓA

Lịch sử Văn hoá truyền thống làng Hạ Mỗ. Phần 9
Ngày đăng 09/05/2022 | 08:47  | Lượt xem: 400

PHẦN THỨ HAI

VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG LÀNG HẠ MỖ

I. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

1.Hệ tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng

a. Hệ tư tưởng

Trên tổng thể, người Hạ Mỗ từ lúc còn là trang ấp, đến khi thành làng xã rộng lớn đều thuần nhất theo chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo. Hệ tư tưởng đó luôn gắn kết từ những tư tưởng của các mặt tích cực nguyên thủy vốn có của đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão, đạo Mẫu mà  dung nạp, đó là sự hỗn dung văn hóa có chọn lọc và phát huy những thế mạnh của các đạo giáo đó trong đời sống hàng ngày. Đậm nét hơn cả vẫn là đạo Phật, đạo Nho.

Tuy nhiên trong quá trình giao thoa giữa các luồng tư tưởng không phải không có những sự xung đột, mâu thuẫn trước những sự cố đang diễn ra trên quê hương đất nước ở mỗi thời kỳ.

Ở thế kỷ thứ 6, Ô Diên đã từng một thuở là kinh đô của Nhà nước Vạn Xuân dưới triều Hậu Nam Đế Lý Phật Tử, với quan điểm “tôn quân, đại thống nhất” của Nho giáo, người Hạ Mỗ ghi nhận công lao đưa non sông về một mối. Câu đối ở miếu Hàm Rồng ghi rõ:

Thế tráng tống thành, Hậu Lý sơn hà khôi nhất thống.

Ân thùy thang ấp, Ô Diên miếu vũ trĩ thiên thu.

(Thế mạnh thành giăng, Hậu Lý non sông về một mối.

Tình sâu đất vững, Ô Diên miếu vũ vút ngàn năm.)

Và người Hạ Mỗ cũng từng tự hào là gia thần thủ túc của Hoàng tử Lý Bát Lang, người lập công đầu trong cuộc chiến chống Triệu Việt Vương.

Hiệp Hòa nhất trận tiên phong tướng.

Phú Lộc thiên thu thị vệ thần.

(Một trận ở Hiệp Hòa (ngài) đã làm tướng tiên phong.

Nghìn năm trên trang Phú Lộc (dân) mãi là quân bảo vệ).

Hơn nữa, người ta cho rằng việc Lý diệt Triệu là thuận với “trung thần tiết nghĩa giữ nối dòng dõi” [1]:

Nha Hải chấn thần uy phục quốc sơn hà hưng Hậu đế.

Diên đô lưu thánh điển khắc gia công đức quán Tiền Vương.

(Cửa biển Đại Nha, dùng hình pháp của thần chỉnh đốn lại, khôi phục nền độc lập, non sông thịnh vượng thời Hậu Đế.

Đô thành Ô Diên, lấy phép tắc của thánh in sâu và làm tốt đẹp công đức, xuyên suốt của các đấng Tiền Vương. [2])

Xét cho cùng, nhân dân Hạ Mỗ cho đó là do trời định (Thiên mệnh) cả. Vì vậy có bài ca:

Chuyện làng từ xửa từ xưa

Cố đô hoang phế bây giờ còn đâu.

Chuyện chàng rể đổi đâu mâu,

Để cho sông núi biển dâu khôn lường.

Ai là tướng, ai là vương ?

Hai vua một nước biết đường nào theo !

Vận giời khó đoán khôn chiều,

Bụi hồng bao lớp bấy điều oan sai.

Sự tình biết ngỏ cùng ai

Chỉ còn kêu ở trời cao đất dày !

Xây Đồng trụ bắc thang mây,

Để cho bốn cóc trèo cây hỏi trời !

Tuy nhiên, trước cảnh đời mà “phó mặc” việc của trời.

Núi sông Lý –Triệu tan tành.

Diều bay mấy chốn một mình thương ôi !

Chiến hòa cuộc phó nước trôi

Cỏ xanh cây biếc loi thoi đầy thành [3].

Hay :

Thua được sự đời theo cảnh vật,

Xưa nay làng mạc vẫn nông tang.

Già quê đâu biết trò hưng phế

Tin nhảm đàn reo mả Phúc Vương [4].

Mượn lời nói chuyện (thoại) của Thành hoàng với dân làng trong bài giáng bút tại lễ Đồng giáng, bút để minh họa rõ hơn về việc trời định :

“Ta là Hoàng tử thứ tám triều nhà Lý, trời sắc giáng xuống thế gian. Hạn định 20 năm phải chóng dẹp xong giặc nước, Vì vậy, ta cho một trận gió mây, gai góc trừ hết. Thắng trận trở về được 3 ngày, trời sai sứ giả áo đỏ xuống gọi ta về...”[5].

Những kiến giải trên đậm nét của tư tưởng Nho giáo. Mặt khác, chứng kiến cảnh chiến tranh, mà lại là nội chiến, cảnh nồi da nấu thịt thì lòng lại xót xa hờn oán. Không nói được bằng lời thì đặt địa danh cho đất để nhắc nhở cho đời sau suy ngẫm. Đó là xứ U ghi trong địa bạ  “Châu Thổ Ô Diên U xứ”,  U () theo nghĩa chữ Hán, về địa lý là chỉ vùng đất sâu kín, xa xôi hẻo lánh còn về tình cảm con người thì đó là sự oán giận không nói ra được gọi là oán, u hận.

Dẫu chiến tranh giữa hai nhà Lý (Lý Phật Tử) và Triệu (Việt Vương Triệu Quang Phục) nhằm để “giữ nối dòng dõi” hay vì đó là do thiên định (do trời đã định từ trước theo quan niệm duy  tâm) thì người Hạ Mỗ cũng không mong muốn mà chỉ mong cầu “thiên hạ thái bình”.

Chính vì vậy trong quy trình tế tại đình, miếu của làng mở đầu đông xướng không bao giờ xướng câu “khởi chinh cổ” , bởi chinh là cái chiêng, cổ là cái trống, chinh cổ là chiêng và trống nghĩa bóng là việc quân, việc chiến tranh. Ngọn cờ đại (còn gọi là cờ hội) làng Hạ Mỗ có thêu bốn chữ mỗi mặt đó là “Thiên hạ thái bình” [6] và “hồ bất bái bái”. Hồ bất bái bái nghĩa là “sao không vái lạy” ý chỉ là “theo”, ý tám chữ ở hai mặt cờ hiểu là “sao không vái lạy (theo) ngọn cờ “(con đường) “Thiên hạ thái bình” tức là chỉ có đường duy nhất là theo, mong cho “thiên hạ thái bình”, cầu mong cho khắp nơi thịnh trị, người sống yên vui.

Cờ làng thêu tám chữ vàng,

Tình nhân ái nghĩa xóm làng từ xưa.

Cha truyền con nối đến giờ,

Niềm tin chói sáng ước mơ đã thành.

Cây đa bến nước sân đình,

Mong sao “thiên hạ thái bình” dài lâu.

“Hồ bất bái bái” nguyện cầu,

Theo cờ tiến bước trước sau một lòng !

Và muốn có thiên hạ thái bình, thì cần có những con người sống theo mẫu người quân tử ? Người mẫu của đạo Nho là người quân tử, tức là người phải chấp nhận mệnh trời (thiên mệnh), trung với vua, hiếu với cha mẹ.

Người Hạ Mỗ khảng khái nêu rõ thái độ của người thần dân thị vệ thuở trước.

Nhất thân quân phụ

Vạn đại hiếu trung.

Truy tùy xích thố,

Bộ nhiếp thanh Long.

Quyên sinh kháng Bắc,

Tuẫn tử xanh Đông.

Sùng ninh thị vệ,

Thiên cổ anh hùng !

(Một thân phận đối với vua và cha

Muôn đời còn giữ trọn hiếu, trung.

Đuổi giặc cùng ngựa tốt,

Theo vận về với rồng xanh.

Quên mình chống giặc Bắc,

Chết thuận theo Biển Đông.

Thà làm trọn thị vệ,

Nghìn xưa đấng anh hùng[7]!)

Để có thể thực hiện điều đó, con người phải biết tự kiềm chế, hãy sống lương thiện lấy việc nghĩa làm trọng.

“Tiền tài tri túc chớ tham

Đừng lo tranh đoạt, gắng làm từ bi” [8]

Vào cuối thế kỷ 19, trong những ngày nước mất nhà tan dưới ách thống trị của thực dân xâm lược Pháp, người Hạ Mỗ đã mượn lời Phật, Thánh, Tiên để nói lên ý chí của mình. Họ không giấu giếm nổi lòng yêu nước thương dân, lên tiếng cổ vũ, khích lệ tinh thần đấu tranh, hoặc tìm lời lẽ giảng giải về nhân tình thế thái, về vận mệnh, về cơ hội để làm việc có ích cho đời. Người Hạ Mỗ biết phân biệt “chuyện xưa” với “chuyện nay” để cũng mong cho “thiên hạ thái bình” thì phải đứng lên chống xâm lược để bảo vệ quê hương đất nước. Họ khuyên nhủ nhau “đường xưa khó nói hãy ngẩng đầu!” và hô lào kêu gọi “sơn hà chìm đắm sao im tiếng, nhật nguyệt lu mờ sóng sáng đâu?”, Một mặt khuyên nhau phải đoàn kết như lời thành hoàng làng giáng bút “Phải thương xót, lo nghĩ đến nhau, cùng thương yêu và khuyên bảo nhau…” thì phải noi theo tiền nhân hy sinh chiến đấu.

Khắc sâu tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, trong câu châm ghi trên bức đại tự ở đền “Chính Khí”

Bắc Phương cạnh tú,

Nam nhạc chung thiên.

(Sao tranh phương Bắc,

Núi họp trời Nam.)

Và hình ảnh hiên ngang của người anh hùng đánh giặc cứu nước:

Oai phong dáng mãnh tướng

Sôi sục máu trượng phu.

Liều mình chống quân Ngụy,

Thề chết diệt giặc Ngô.

Gươm vàng quét cho sạch,

Kiếm ngọc phất đỏ cờ.

Thỏa lòng bao lớp trước,

Trang nghiêm đến ngàn thu[9].

Chiến đấu thì phải có hy sinh gian khổ, người Hạ Mỗ lại lên tiếng cổ động tinh thần lạc quan.

Gió đông qua, gió xuân về,

Muôn hồng nghìn tía bốn bề hương bay.

Phương Đông hòa khí tràn đầy,

Đã tận khổ ắt đến ngày cam lai [10].

Tư tưởng yêu nước được xuyên suốt trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này đó là tinh thần chiến đấu hy sinh đánh giặc giữ nước giữ làng trong kháng chiến chống Pháp và hết lòng chi viện sức người sức của cho tiền tuyến miền Nam thực hiện cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Đồng thời xây dựng quê hương đất nước giàu mạnh tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Phát huy truyền thống yêu nước, trong thời kỳ mới, xây dựng nông thôn mới, người Hạ Mỗ cùng toàn Đảng, toàn dân hưởng ứng và thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với chủ đề “Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh suốt đời phấn đấu cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, làm người công bộc, tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị”. Từng bước xây dựng hệ tư tưởng Hồ Chí Minh một cách toàn diện và vững chắc, làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, lớn bé trẻ già ai ai cũng tâm niệm và thực hiện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trước hết vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của từng người dân để thực hiện phương châm “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: : “Trời có 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông, đất có 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc, người có 4 đức: Cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một đức thì không thành người”.

Cần, theo Người là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao, lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống nguồn hạnh phúc của chúng ta.

Kiệm, là “tiết kiệm”, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi.

Liêm là “trong sạch không tham lam”, không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa, chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.

Chính, nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Về chí công vô tư, tức là “đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau. “Phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”

Những phẩm chất đạo đức đó, ai ai cũng phải phấn đấu thực hiện, không riêng gì cán bộ, đảng viên nhưng cán bộ, đảng viên càng phải đi đầu thực hiện để làm gương cho toàn dân noi theo.

Với tư tưởng đó, người Hạ Mỗ khuyên nhau phải luôn giữ vững bản ngã tinh hoa cốt cách của mình…. Xưa kia, cổng làng là mái ấm đi về, đón đưa đóng mở. Đường ăn ý ở, chuyện to chuyện nhỏ, đóng cửa bảo nhau. Và, cổng làng xưa, dầu dãi nắng mưa, trụ vững sớm trưa, rộng mở bốn mùa, đón “Đồng nhân cát”. Hôm nay, cổng làng mới nhưng với tâm hồn cốt cách vẫn như xưa thật oai phong, hiển hách:

“Đông môn tụ nghĩa nhân, ngưỡng chi di cao, đặc lập bất kinh phong vũ bá.

Nam hướng nghênh nguyên khí, quan hồ hiển hách, kình thiên vô úy điện lôi thần” [11]

(Cửa Đông tích đạo nhân, trông lên càng thấy cao, đứng vững chẳng sờn mưa to gió lớn.

Hướng Nam đón nguyên khí, xem ra hiển hách thật, đội trời, không ngại sấm sét rền vang).

Và rồi nhắc nhở nhau vì lòng trung với nước hiếu với dân để mỗi người ra đi là vì nước, trở về cũng vì dân vì làng như lòng mong ước, mong đợi và hy vọng ở mọi người.

“ Xuất phát tài danh phù quốc kế,

Nhập thu tài trí hộ dân sinh [12]”.

(Ra đi phát triển tài năng danh vọng, giúp kế hay cho nước.

Trở lại thu về tài lộc mưu Đồ tăng sức sống cho dân).

b. Tôn giáo

Hạ Mỗ, vốn là dân nông nghiệp thuần túy, chuộng văn hiến. Từ xa xưa, người Hạ Mỗ sống nhân hậu, thủy chung, đoàn kết thương yêu đùm bọc lẫn nhau để xây dựng xóm làng. Sống lương thiện làm việc nghĩa là truyền thống, là lẽ sống mà người Hạ Mỗ đã lựa chọn.

Chính vì vậy, từ khi các tôn giáo như Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo du nhập vào Việt Nam, người Hạ Mỗ đã tiếp cận và tiếp thu những yếu tố tích cực và nhanh chóng vận dụng trong cuộc sống của mình để phát huy và biến nó thành sức mạnh cho dân làng trong lao động sản xuất và đấu tranh để sinh tồn và phát triển.

Về nguồn gốc và sự ra đời của ba thứ đạo ấy có ở Việt Nam và nhất là thâm nhập vào Hạ Mỗ từ bao giờ thì chúng ta không biết được đích xác. Chỉ biết rằng đạo Phật, đạo Nho và đạo Lão vẫn hiển hiện trong đời sống của người Hạ Mỗ. Cả 3 đạo giáo ấy như đã hòa hợp với nhau và người Hạ Mỗ đã tôn sùng, thờ cúng và noi theo những giáo lý của cả 3 tôn giáo.

“Ba tôn giáo trong lịch sử văn hóa Việt Nam là Phật giáo, Nho giáo và đạo giáo, đó cũng là 3 học phái triết học lớn làm nền tảng của văn hóa phương đông nói chung, Việt Nam nói riêng. Trong quá trình lịch sử hàng nghìn năm chúng vừa xung đột, vừa hòa nhập vào nhau, tạo nên một thế chân vạc trong văn hóa phương đông. Phật giáo du nhập vào Việt Nam vào khoảng những năm đầu công nguyên, đến thời nhà Lý (1009 – 1225), Phật giáo là Quốc giáo.

Nho giáo vào Việt Nam rất sớm, cùng thời với Phật  giáo. Đến thời Hậu Lê (1428 – 1789) Nho giáo được xem là Quốc giáo. Còn Đạo giáo truyền vào Việt Nam có lẽ cũng vào thời kỳ với Phật giáo và Nho giáo. Khi truyền vào Việt Nam nó kết hợp với đa thần giáo bản địa. Đạo giáo chưa bao giờ có địa vị chính thống vượt trội như Phật giáo thời Lý, Nho giáo thời Hậu Lê, nhưng nó mang tính chất dân gian rất sâu rộng.

Cả ba tôn giáo này khi du nhập vào Việt Nam thì được Việt Nam hóa, đã hòa Đồng vào văn hóa Việt Nam, gắn bó với văn hóa Việt Nam và đến ngày nay, nhiều nét tích cực đã trở thành những yếu tố của văn hóa dân tộc, góp phần tạo thành bản sắc độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam. [13]  Người Hạ Mỗ đã tiếp nhận cả 3 tôn giáo đó theo thuyết Tam giáo Đồng nguyên.

Để giải thích và bảo lưu về quan điểm theo Tam giáo Đồng nguyên của người Hạ Mỗ, mượn lời Pháp sư Từ Đạo Hạnh  trong bài Tam giáo tu hành luận (Bàn về tu hành của Tam giáo) [14] có đoạn như sau:

 “Từ khi trời đất được khai mở tới nay, thói đời thay đổi, phong tục chuyển rời, hết bĩ rồi lại thái, biến đổi chẳng vĩnh hằng. Còn sự tồn tại của tam giáo trong trời đất, thì không vì sự biến hóa đó mà đổi khác” .

“ Người tu hành theo tam giáo, thời nào chẳng có, nhưng cũng có (những người) tu mà chẳng chứng đắc được điều cần tu. Có khi thì tiếng nhà Nho mà đạo hạnh lại nhà Mặc, có khi theo Đạo giáo mà vẫn vướng cái tình trần hoặc miệng Nam Mô mà vẫn còn chưa hết được mối nợ phong trần.”

“Tu theo Nho thì trở về cái ban đầu của Thượng Đế, Phục Hy, nối tiếp được cái đạo thống của đế vương thánh hiền, như thế thì sẽ đắc được đạo Nho. Còn như đạo gia, rửa tâm sạch sẽ, phép cũ của tiên nơi Tống Sơn còn truyền. Phật gia xuất thế bỏ trần tục, phong thái của Phật vẫn còn ở nơi Hương Động (Hương Tích)”.

Và như lời “tán” (khen) của Thích Ca Như Lai Phật Tổ: “Tâm tâm, Phật Phật, sâu sắc, không không, Nhị thiên ban ơn, tam giáo đạo cùng”.

Trong việc thờ tự, tại đền Văn Hiến và đền Tri Chỉ đều có tượng thờ tam thánh, đại diện cho tam giáo đó là Quan Thánh đế quân (Phật), Văn Xương đế quân (Nho) và Phu Hựu đế quân (Lão).

* Nho giáo

Đây là học thuyết chính trị, đạo đức do Khổng Tử xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 6 trước công nguyên được lưu truyền ở Trung Quốc và một số nước phương Đông trong đó có Việt Nam.

Nho giáo còn gọi là Khổng giáo. Từ thời Hán trở đi dần dần trở thành ý thức tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa. Nho giáo chủ trương “tôn quân, đại thống nhất” đã ảnh hưởng sâu sắc trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam.

Tất cả những người theo Nho giáo đều có những đặc điểm chung như 1 tôn Khổng Tử làm thầy, lấy lời nói và hành động của ông làm tiêu chuẩn cao nhất, 2- Lấy ngũ kinh, kinh thi, kinh thư, kinh lễ, kinh dịch, kinh xuân thu làm sách kinh điển; 3- Đề cao nhân nghĩa; 4- Bảo vệ các quan hệ luân thường vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Nho giáo chủ trương thực hiện lễ, nhạc, nhân, nghĩa, trung thứ và đạo trung dung trong xã hội.

Về chính trị, đề xướng đường lối đức trị, nhân chính (hay là nhân trị), coi trọng giáo dục đạo đức luân lí và tu thân.

Khổng Tử là người suốt đời phấn đấu cho sự học và sự dạy “Học không chán, dạy không mỏi, học cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho sáng rõ, làm cho hết sức” và “ tất cả mọi hạng người đều cần được giáo dục không phân biệt đẳng cấp”.

Thấm nhuần Nho học theo tư tưởng của Khổng Tử, “vạn thế sư biểu” (ông thầy của muôn đời), người Hạ Mỗ ngay từ xưa đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, việc học chữ Nho (còn gọi là chữ Ta) được tổ chức và duy trì không bao giờ dứt.

Phan Kế Bính, trong “Việt Nam phong tục” đã viết: “Đạo Nho là một đạo bình thường, giản dị thuận lẽ tự nhiên của tạo hóa và hợp với tính tình đương nhiên của người ta. Ai cũng có thể noi theo được. Người mà có Nho học, thì nên một người có nết na, có lòng nhân ái. Nước nhà dùng Nho học, thì nên một nước có kỷ cương, có thể thống, dễ cho việc cai trị, mà nhân dân cũng được hưởng phúc hòa bình.”

Mượn lời của Quốc Triều Thái Bảo Trang liệt Bá họ Nguyễn (Nguyễn Tri Phương) trong cổ Kim truyền lục (Tập Hanh- tờ 3- trang 2) người Hạ Mỗ nói lên tầm quan trọng của Đạo Nho: “Cho đến khi Thánh Khổng san định kinh điển, như nhật nguyệt sáng tỏ giữa trời, Trình Chu nối tiếp đạo thống, xua tan u ám nhiều đời”.

Làng lập văn chỉ thờ Khổng Tử, dựng bia khoa tràng ghi danh biểu dương công đức các danh nhân khoa bảng khuyến khích việc học tập theo Nho học, Hàng năm ngày rằm tháng ba, Hội Tư Văn cùng các thầy Đồ, môn sinh trong làng tổ chức tế các bậc tiên hiền, hậu hiền tại nhà bia Khoa Tràng, sau này dời về đền Văn Hiến khi nhà bia Khoa Tràng bị đổ.

Từ khoa thi Hội năm Khải Định thứ 4, Kỷ Mùi (1919) chế độ khoa cử bằng chữ Nho chấm dứt. Tuy vậy, trong các làng xã việc dạy và học chữ Nho vẫn tiếp tục dụy trì bên cạnh chế độ giáo dục của chính quyền thuộc địa với phong trào “tân học”

Nếu ở Hà Nội, các nhà yêu nước mở Trường Đông Kinh nghĩa thục (1907), ngoài sách Quốc Ngữ còn biên soạn và ấn hành nhiều sách chữ Hán (chữ Nho hay chữ Ta) thì ở Hạ Mỗ, các nhà Nho đã tổ chức “Lễ Đồng Giáng bút” ở chùa Hải Giác để qua đó công bố các sáng tác thơ văn yêu nước bằng chữ Nho tập hợp trong bộ sách “Cổ Kim truyền lục”.

Tô Hiến Thành, người con trai làng Hạ đã dùi mài kinh sử theo Nho học suốt đời. Lúc làm quan nhỏ ông thường về quê ở, tự học, tự rèn và đã ứng thí trúng Thái học sinh năm Mậu Ngọ (1138). Từ đây ông được nhà vua trọng dụng giao cho nhiều trọng trách, đóng góp nhiều công lao với đất nước được tiến phong từ chức Thái úy (1159), đứng đầu hàng quân đến Nhập nội kiểm giáo Thái phó Bình Chương quân quốc trọng sự Vương tước (1175). Ông cũng được coi là một vị đại thần trọng văn hiến được quốc sử trân trọng ghi chép. Việt sử thông giám cương mục ghi rõ: “Hồi đầu thời Lý, Văn Miếu thờ chung cả Chu Công và Khổng Tử, đến đây (1156) Tô Hiến Thành xin lập Miếu riêng để thờ Khổng Tử ở phía Nam thành Thăng Long “tức Văn Miếu Quốc Tử Giám hiện nay”. Ông luôn coi mình là học trò của Khổng giáo.

Trước lúc lâm chung, ông xin nhà vua cho về quê khi mất để được báo hiếu tổ tiên và được hầu thờ Đức Khổng Tử ở Văn chỉ của làng. Và cũng vì vậy, từ văn chỉ ban đầu, dân làng xây dựng thành đền Văn Hiến như ngày nay và tôn ông là thần chủ của Văn Hiến đường.

Đến thời Lê, Đỗ Trí Trung đỗ Hoàng Giáp (đệ nhị tiến sĩ) khoa Ất Mùi (1475). Sau khi mất ông cũng được phối thờ tại Văn Hiến đường.

Hạ Mỗ từ xưa đã là “đất hiếu học, đất trọng thầy công thành danh toại xưa nay đã nhiều”. Truyền thống tôn sư trọng đạo, trọng Nho học đã đạt được những thành tựu. Tại bia “Tiên hiền vị” (các vị tiên hiền) và “ Khoa danh tương kế chi bi” (Bia ghi kế tiếp sự nghiệp khoa danh) có đôi câu đối ghi rõ sự nghiệp của các vị đại khoa, trung khoa giám sinh, tiểu khoa sinh Đồ lớp lớp đã làm rạng rỡ nền Nho học của quê hương.

Tiểu thành, đại thành khoa đệ biệt đăng tư phúc ấm.

Thu thí, xuân thí khoa thứ lịch trúng chư tiên sinh.

(Xuân thu khoa cử lần lượt rõ ràng các tiên sinh trúng tuyển.

Lớn nhỏ công thành cũng nhờ phúc ấm thứ bậc được nêu danh).

Đối với người đi trước thì “Bảo rằng sùng kính thờ phụng các bậc tiên hiền để vun bồi đạo mạch mà chấn hưng văn phong. Luống nghĩ làng ta sĩ tử đời đời đăng khoa mà dấu vết thực thăm thẳm, dấu thơm mênh mang. Việc cầu cho những điều ấy có thể thủy chung dài lâu cùng trời đất, sừng sững cùng sông núi chỉ có lưu lại ở bia mà thôi. Bèn cấp tiền Đồng mua 4 sào ruộng, dựng bia ghi lại tên, hàng năm kính cẩn cúng tế, để phô bày tấm lòng sùng trọng, cũng như là phát huy đạo học mà sáng soi cho người đời sau về những người có công với Nho học” [15].

Để phát huy truyền thống, người Hạ Mỗ đặt niềm tin ở thế hệ tương lai. Bia “Từ Liêm Huyện, Hạ Mỗ xã khoa nghiệp Tân bi ký” dựng năm 1812 nói lên điều đó: “Các vị tiền bối xã ta được khắc tên vào bia để thờ phụng… Đến nay, số người đỗ đạt tăng lên nhiều, vì vậy phải mở rộng quy mô, dựng thêm một tấm bia mới, kính cẩn ghi thêm các vị để thờ phụng… Khiến cho các vị đỗ đạt thời trước tỏa sáng rực rỡ như mặt trăng, mặt trời, được học giả các đời ngưỡng mộ như núi Thái Sơn, như sao Bắc Đẩu, đã tôn vinh lên tận trời, lại bồi đắp để trường tồn cùng với đất.

Trên là để kế tục sự nghiệp rạng rỡ của các bậc tiên công, dưới làm kim chỉ nam cho những kẻ hậu học. Ngõ hầu tấm bia tư văn nhỏ này vạn nhất phụ vào tấm bia cũ để truyền mãi cho đời sau. Cũng như noi theo cái cũ, coi trọng việc học đến vô cùng. “Nêu ra việc này để chờ đợi những người có tài năng nên viết bài ký”.

Truyền thống “Tôn sư trọng đạo” cùng với đường lối chủ trương “Học suốt đời”, xây dựng “ xã hội học tập”, đẩy mạnh công tác “khuyến học, khuyến tài” [16] được xây dựng và phát huy tác dụng là sự kế thừa truyền thống của đạo Nho mà ông cha từ xưa đã xây đắp và không ngừng phát huy, phát triển.

Chính quyền địa phương thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của Bộ sách Cổ Kim truyền lục Đồng thời tìm hiểu giá trị của các di sản Hán Nôm trên địa phương, đã tiến hành hợp Đồng cùng khoa Hán-Nôm thuộc trường Đại học xã hội và nhân văn- Đại học quốc gia Hà Nội tổ chức biên dịch các tư liệu Hán Nôm của làng trong 3 di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, tiến tới đề nghị xếp hạng bộ sách CKTL – với bộ mộc bản là di sản ký ức là một việc làm rất đáng  hoan nghênh, bởi chúng ta đã biết trân trọng giá trị của nền Nho học nói chung và các di sản Hán Nôm của làng nói riêng.

* Phật giáo

Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, Phật giáo truyền đến Việt Nam vào khoảng đầu công nguyên, Phật giáo do Thích Ca Mâu Ni người sáng lập được suy tôn là Phật tổ Như Lai. Từ khi vào Việt Nam cũng là khi vào đến đất làng Hạ Mỗ (hay đất Ô Diên), Phật giáo đã có cuộc sống hàng mấy ngàn năm.

Người Hạ Mỗ, những người nông dân bản xứ trồng lúa nước, họ tin ở sức mạnh của ông trời trên cao có thể khuyến thiện, trừng ác, tin ở hiện tượng tự nhiên như mây, mưa, sấm chớp, núi, sông… đều là những vị thần có thể phù trợ con người hay ngược lại là gây cho con người những tai họa.

Phật giáo đem lại cho đương thời những giải thích mới mẻ về nỗi khổ của con người, về nguyên nhân đau khổ, về con đường thoát khổ, là những day dứt từng làm khổ sở con người trong bao nhiêu đời, Đồng thời nó kêu gọi lòng từ bi hỷ xả, một chủ trương đáp ứng được lòng mong mỏi của con người vốn nhiều rủi ro và lắm tai họa lúc bấy giờ. Vì vậy, Phật giáo đã tìm được chỗ đứng và có điều kiện làm rễ chắc chắn trên mảnh đất này. Đạo phật chủ trương pháp tính bình đẳng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều có thể thành Phật, từ chỗ tự giác tiến lên làm nghĩa vụ giác tha. Phật khuyên mọi người nên tiết chế dục vọng, có tinh thần vô ngã vị tha, làm điều lành, tránh sự ác. Phật là biểu tượng của sáng suốt và trí tuệ.

Thuyết nhân quả nghiệp báo của phật giáo phù hợp với tín ngưỡng dân gian Việt về việc ông trời trừng phạt kẻ ác, cứu giúp ban thưởng người lành.

Thuyết luân hồi cũng phù hợp với nhận xét về sự tuần hoàn của cỏ cây của cư dân nông nghiệp.

Ngay từ buổi ban đầu, người Hạ Mỗ dã tin yêu đạo Phật, hướng theo đức Phật, xây chùa, tạc tượng tụng kinh niệm Phật mong hiểu rộng như biển [17].

“ Theo truyền thuyết, chùa Hải Giác được xây dựng từ thế kỷ VI, nghĩa là từ khi Hạ Mỗ có địa vị trung tâm của đất nước [18]. Hiện diện này còn cần được đi sâu tìm hiểu. Song sự tồn tại của ngôi chùa dưới thời Lý (Hậu Lý) đã được khẳng định chắc chắn qua sự có mặt của nhà sư Trí Bảo vị thiền sư nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam ở thế kỷ 12 [19]

Hải Giác danh lam thiên cổ tích,

Diên thành vượng khí vạn niên xuân.

(Chùa Hải Giác danh lam dấu xưa từ thiên cổ,

Ô Diên thành khí vượng muôn đời xuân.)

Người Hạ Mỗ luôn tự hào về ngôi chùa cổ kính Đồng thời tin ở sức mạnh của giáo lý của Đức Phật. Bài ninh trong khánh chùa có câu chỉ rõ về điều đó:

“Tế độ thanh truyền môn thấu ngũ,

Từ bi hưởng tống giới thông tam.

Hổ khiêu thạch điểm [20] Như Lai giáo,

(Tế độ (cứu giúp) tiếng truyền thấu ngũ môn.

Âm hưởng từ bi vang xa khắp tam giới,

Giáo lý của Như Lai đem lại sức mạnh cho người tu hành.)

Phật giáo đã đem lại sức sống cho nhân dân ta. Câu đối chùa Hải Giác đã nêu rõ:

Thứu lĩnh hiển thần quang ngọc chỉ hoằng khai công đức ngạn,

Diên thành lưu thánh hóa kim chung hoán giác cổ kim nhân.

(Núi Thứu Sơn rực rỡ ánh sáng của thần rộng mở lòng từ bi tới bến sông mê,

Thành Ô Diên để lại lời dạy của thánh như tiếng chuông, thức tỉnh mọi người xưa nay.)

Lời phật thánh đã trở thành cứu cánh cho người Hạ Mỗ sống và làm việc thiện mở lòng từ bi để đoàn kết xây dựng xóm làng bảo vệ quê hương đất nước.

Nguyễn Trí Bảo, từ nhỏ đã từ chùa làng tu tập rồi lên chùa ở núi Thanh Tước đắc đạo và trở thành nhà lý luận xuất sắc của đạo Thiền đời Lý “Nói ngang nói dọc như lửa tóe trong đá”. Ông đã để lại bài kệ cho Phật tử mà người Hạ Mỗ tâm nguyện noi theo. Đó là phương châm sống: “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi” (Biết thế nào là đủ thì không nhục, biết dừng lại thì không nguy) [21].

Vâng theo lời dạy của Thiền sư Trí Bảo, Thái úy Tô Hiến Thành, cháu gọi Thiền sư là cậu ruột cũng một lòng hướng theo đạo Phật. Ông vẫn coi mình là học trò của Trí thiền Lê Thước, người đứng đầu thế hệ thứ 16 dòng thiền Nam Phương, được Trí thiền quý trọng tặng thơ cùng Thái Bảo Ngô Hòa Nghĩa:[22]

Ký hoài xuất tố dưỡng hung trung,

Văn thuyết vi ngôn, ý doãn tòng.

Tham dục truất trừ thiên lý ngoại,

Hi di chi lý nhật bao dung.

Nghĩa là:

Đã ấp ủ trong lòng muốn thoát ra ngoài cõi tục,

Nên khi nghe lời huyền diệu là chân thành tin theo.

Hãy trừ bỏ và đuổi sự ham muốn ra ngoài nghìn dặm,

Hàng ngày chứa chất trong lòng cái lẽ nhiệm mầu.

Cả cuộc đời Tô Hiến Thành đã sống và hành động theo tâm của đạo Phật, trọn cuộc đời làm việc nghĩa vì nước, vì dân như lời dạy của người thầy khả kính Trí Thiền Lê Thước.

Đến thời Lê, Hoàng Giáp Đỗ Trí Trung, sau khi về hưu đã hết lòng, hết sức giúp đỡ dân làng hưng công tôn tạo chùa Hải Giác to lớn như ngày nay. Sau khi mất, ông bà được dân làng tôn làm Hậu Phật, tạc tượng thờ tại nhà Hậu điện chùa Hải Giác (bên phải tòa mặt động) với bức đại tự “Tự hữu công” và đôi câu đối:

Khoa hoạn bất ma tiền sử lục,

Hương đăng biệt sở thạch bi công

(Khoa hoạn hanh thông, sử đời trước nay còn ghi đó,

Đèn hương thờ cúng riêng biệt, bia đá vẫn lưu công.)

Cuối thế kỷ 19, hưởng ứng phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược của tầng lớp sĩ phu, nhà sư Thanh Trang, trụ trì chùa Hải Giác đã tích cực tham gia, lãnh đạo các cuộc nổi dậy của nghĩa quân trong vùng.

Với lòng yêu nước giữ cho tốt đời đẹp đạo, sư tổ trở thành hữu quân chánh tướng, nhân dân Phật tử trở thành những nghĩa quân.

Tấm gương chiến đấu hy sinh của nhà yêu nước sư cụ Thích Thanh Trang đã góp phần làm giàu thêm truyền thống yêu nước của nhân dân và Phật tử địa phương và rạng danh ngôi chùa Hải Giác [23].

Nhiều nhà sư ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là những chiến sĩ yêu nước kiên cường. Họ là những người tổ chức nên nhiều cuộc nổi dậy chống chính quyền thực dân phong kiến. Họ cũng bị bắt bớ, tra tấn, cầm tù và chém giết như những người yêu nước khác. Nhiều người trong số họ đã là chiến sĩ vô danh (Lịch sử Phật giáo Việt Nam. NXB KHXH HN 1998 trang 420)

Phật pháp thị nhập thế nhi phi yếm thế,

Từ bi nãi sát sinh dĩ độ chúng sinh.

(Đạo Phật là nhập thế chứ không phải yếm thế,

Từ bi là sát sinh để cứu độ chúng sinh.)

Câu đối trên của nhà sư Thiện Chiếu có nghĩa là đạo Phật phải tham gia vào công cuộc cứu nước, phải giết kẻ xâm lăng để cứu vớt nhân  dân.

Người Hạ Mỗ luôn tâm niệm như lời Phật dạy:

“Ác mạc tác” (Việc ác, việc xấu tuyệt không làm), “Thiện phụng hành” (việc thiện, điều lành vâng mệnh thi hành) [24]

Và như lời trong bài “Tán, tự bạt” Tập nguyên Bộ Cổ kim truyền lục đã ghi rõ “Nguyên, Hanh thị khuyến” (Tập Nguyên, Hanh ghi lời khuyên nhủ), “Lợi, Trinh thị trừng” (Tập Lợi, Trinh ghi lời răn bảo, trừng trị) [25]. Đó là sự trùng hợp với chủ trương của Phật giáo “làm điều lành, tránh sự ác” mãi mãi còn có giá trị cho muôn đời.

* Đạo Lão và Đạo Mẫu

Ngoài đạo Nho và đạo Phật, ở Hạ Mỗ còn có ảnh hưởng của Đạo Lão và tín ngưỡng thờ Mẫu từ lâu, tuy mờ nhạt hơn đạo Nho, đạo Phật. Đạo lão còn gọi là Lão Tử giáo, tôn Lão Tử là Thái thượng lão quân. Nếu Nho giáo là đạo “nhập thế” và dạy người ta những phương châm xử thế thì Lão giáo là đạo “xuất thế”, chủ trương “vô vi”, thoát tục, cởi bỏ mọi ràng buộc xã hội, thuận theo tự nhiên, ưa thích thiên nhiên.

“Sử ký chép rằng”: Khổng Tử hỏi lễ, Lão Tử đáp”:

“Người quân tử gặp thời thì đi xe; không gặp thời thì đội nón lá mà đi chân không. Ta nghe: Người buôn bán giỏi khéo chứa của, như người không có gì, người quân tử có đức tốt, coi diện mạo như người ngu. Bỏ cái khí kiêu căng và lòng ham muốn cùng là cái sắc dục và cái dâm chí của người, ấy đều là vô ích cho mình người cả” [26].

Cùng với sự thâm nhập của đạo giáo từ Trung Quốc vào nước ta, tục thờ thần Mẫu đã tiếp thu những ảnh hưởng về hệ thống vũ trụ luận, du nhập các vị thần linh của đạo giáo, vay mượn một số nghi thức thờ cúng để cùng với sự phát triển nội tại của hình thức tín ngưỡng này về mặt ý thức xã hội, mô thức thần điện mang tính cung đình, sự tích hợp các hiện tượng văn hóa… hình thành và định hình một thứ đạo Mẫu mang tính hệ thống hơn.

Đó là một tín ngưỡng đã có điện thần tương đối hệ thống và hoàn chỉnh. Các vị thần linh được phân chia ra thành các phủ, các hàng bậc từ trên xuống dưới, nhưng đều quy về vị thần chủ cao nhất là Thánh Mẫu, có nét gì đó tương tự như đức Phật của Phật giáo.

Từ xa xưa, chùa Hải Giác có “Kim Tiên điện”. Sau này, đền Văn Hiến có “Kim Sơn điện” và đền Tri Chỉ có “Linh Quang điện” [27].

Đạo Mẫu là  một thứ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được tâm linh hóa, tín ngưỡng hóa.

Đạo Mẫu thông qua các ký ức, các truyền thuyết và huyền thoại, qua các nghi lễ và lễ hội đã thể hiện rõ ý thức lịch sử và ý thức xã hội của mình. Trong điện thần của đạo Mẫu, hầu hết các vị thánh đã được lịch sử hóa, tức là đều hóa thân thành những con người có danh tiếng, có công trạng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tất nhiên trên thực tế không có ít những vị thánh thần vốn thoát thai từ các nhân vật có thật trong lịch sử, sau này được người đời tô vẽ thần tượng lên thành các vị thần thánh, tức là các vị thần thánh có “nguyên mẫu” trong lịch sử (Trần Hưng Đạo – Đức Thánh Trần, Mẹ Âu cơ – Mẫu Thượng ngàn, Lê Khôi hay Nguyễn Xí- Ông Hoàng Mười, trạng Bùng Nguyễn Khắc Khoan – ông Hoàng Bơ, bà Vũ Thị Thục Nương – Thánh Mẫu Bát Nàn…). Ngoài ra còn có nhiều vị thần linh, vốn là các thiên thần hay nhiên thần, nhưng lại được người đời “nhân thần hóa” hay “lịch sử hóa” gán cho họ có sự nghiệp, có công trạng với đất nước hay từng địa phương. Bằng cách đó, Đạo Mẫu gắn bó với cội nguồn và lịch sử dân tộc, đã trở thành một biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, một thứ yêu nước đã được tín ngưỡng hóa, tâm linh hóa, mà trong đó người Mẹ - Mẫu là nhân vật trung tâm.

Đạo Mẫu không hướng chính con người vào niềm tin của người và thế giới sau khi chết mà là thế giới hiện tại, thế giới mà con người cần phải có sức khỏe, có tiền tài và quan lộc.

Trong các giá hầu Đồng “lên Đồng” nội dung các bài hát văn (chầu văn) đều mang tính chất miêu tả, kể chuyện ca ngợi công lao sự nghiệp của “Mẫu”, của “Thánh”..., và những con nhang đệ tử thường xen vào lời ca ngợi, trình bày sự cầu mong… được “Mẫu” hay “Thánh” chỉ bảo và ban tài phát lộc.

Tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu Đồng thì Hạ Mỗ đã có từ lâu, nhưng sự hiểu biết không đầy đủ. Bản thân tôn giáo tín ngưỡng đều hướng về cái thiện, cái đẹp đẽ, cao cả - chân – thiện – mỹ. Tuy nhiên, mọi tôn giáo tín ngưỡng không phải là tồn tại trong “chân không” mà là trong xã hội con người. Con người trong xã hội không chỉ hướng về nó, tôn vinh nó mà còn lợi dụng nó vì các mục đích khác nhau, thậm chí phản lại tính nhân bản, tính văn hóa vốn có của tôn giáo tín ngưỡng nói chung, tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng như tình trạng thương mại hóa đạo Mẫu, thậm chí không hiểu nguồn gốc lai lịch của Mẫu và các vị thần, do đó từ thanh Đồng (ông Đồng, bà Đồng) đến cung văn đã làm sai lạc khi lên Đồng (trang phục, hành động…) hát các bài văn mà nội dung không phù hợp với nhân vật trong “giá Đồng”.

Vì vậy, từ khi tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu Đồng được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, việc tổ chức “Hầu Đồng” ở nhiều nơi phát triển, trong đó có Hạ Mỗ. Dưới sự hướng dẫn trong công tác tuyên truyền và quản lý Nhà nước đối với di sản tín ngưỡng thờ Mẫu phải được đi đúng hướng với mục đích phục vụ cuộc sống con người và xã hội hiện nay.

c.Tín ngưỡng

* Thờ thần

Ngay từ buổi đầu định cư, đất Hạ Mỗ xưa là vùng sông nước bao la. Những gò đống, những khu đất cao đầu tiên đều là nơi tụ cư và cũng là nơi làm ăn sinh sống, xây dựng xóm làng của người Hạ Mỗ.

Cũng như người Việt Cổ, người Hạ Mỗ coi trời là cha, đất là mẹ, Đất là sự cứu tinh, là bà đỡ cho người Hạ Mỗ tồn tại và phát triển.

Để trả ơn Mẹ đất, người Hạ Mỗ tin là có thần đất với quan niệm “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá” tục thờ thần đất có từ xa xưa.

Từng nhà có bàn thờ Thổ Công, từng xóm có miếu thờ Thần linh Thổ Địa. Các di tích từ đình chùa, đền miếu đều thờ “Thổ địa chính nhất linh thần” cùng với “Đông trù tư mệnh Táo Quân”

* Thờ thần linh thổ địa

Trong làng, ở mỗi xóm đều có miếu thờ gọi là miếu xóm. Thường thường miếu xóm được dựng trên gò cao nên gọi là miếu Thần Gò. Theo quan niệm dân gian đất hay gò cao hơn một tấc cũng gọi là núi “Cao nhất thốn giả vi sơn” Cao một tấc ấy là núi, do đó khi khấn lễ còn gọi là Quan Sơn Thần. Theo nghĩa chữ Hán “Thổ” và “Địa” đều là đất nên thường gọi chung là Thần linh Thổ Địa khi khấn vái (gọi tắt là Thổ Thần)

Cả làng, xưa kia có 8 miếu thờ thì đến nay có tới 28 miếu thờ Thổ thần rải khắp làng.

Ngày xưa, một số miếu thờ Thổ thần còn được làm nơi cho tuần phiên canh gác và sinh hoạt của xóm ngõ nên còn gọi là điếm (điếm canh). Điếm được xây gạch lợp ngói, cả 3 gian có sàn gỗ. Gian giữa thường đặt bàn thờ nhưng cũng có điếm bàn thờ đặt ở gian đầu hồi. Đại tự và câu đối (nếu có) thì đều viết trên tường và cột gạch.

Các ngày sóc (mồng một), vọng (rằm), lễ tết cũng như trong nhà có công việc như việc hiếu, việc hỷ, làm nhà… thì đều có lễ thờ Thổ thần xóm.

Hàng năm, ngày vào hè (mồng một tháng tư), ra hè (mồng một tháng bảy) các xóm đều tổ chức cúng vái do các cụ bà và câu đương đảm nhiệm. Phẩm vật cúng lễ đều được đem phát lộc cho mọi nhà.

Riêng ngày Tết Táo quân (23 tháng chạp) các cụ ông và câu đương tiến hành vệ sinh tẩy uế, lau chùi xếp sắp Đồ thờ làm lễ Thổ thần rất cẩn trọng, hóa mũ cũ và thay thế bằng cỗ mũ mới cùng các Đồ mã. Đây là dịp sắm sanh chuẩn bị cho việc ăn tết đón xuân, ăn xóm đầu năm và Lễ hội truyền thống của làng.

Đặc biệt, ngày ăn xóm đầu năm, mọi người trong xóm đều tập trung làm lễ Thổ thần, họp hành và ăn cơm đoàn kết.

Tại các di tích như đền Văn Hiến,  đền Tri Chỉ đều có ban thờ Thổ thần ở bên trái ban thờ công Đồng đối xứng với ban thờ Táo quân, bên phải ban thờ công Đồng. Tại đền Tri Chỉ, cả Thổ thần và Táo quân đều thờ bằng tượng.

Riêng chùa Hải Giác, ngoài ban thờ Đức Ông (thần Cấp Cô Độc) Thổ thần của Chùa, còn có tượng Thần núi (Sơn thần) và Thần sông (Thủy thần) đặt cùng hàng Thập điện Diêm Vương ở Tam Bảo. Đó là đặc trưng của vùng đất Ô Diên có núi, có sông từ trước

Đình Vạn Xuân, Miếu Hàm Rồng, đền Tri Chỉ, đền Chính Khí đều có “Thổ địa chính nhất linh thần” (trong chúc văn), riêng đền Văn Hiến, Thổ thần có tên riêng đó là “ Đôn thuần Thổ thần Lê Triều giám sinh Nguyễn Đại Nhân. [28]

Theo bà con ở một số xóm cũng nói là Thổ thần cũng có tên riêng mà chỉ người trong xóm đó mới biết.

Từ xưa đến nay, người Hạ Mỗ luôn tôn kính Thần linh Thổ Địa trong tâm thức “có thờ có thiêng, có kiêng, có lành”. Người dân luôn ý thức nhà có tổ tiên, xóm có thần linh che chở, do đó mọi nhà mọi người trong xóm ngõ phải cùng nhau đoàn kết, sống lương thiện, làm việc tốt để được phúc, được lộc của thần ban cho.

Đôi câu đối đầu tiên ở miếu xóm Đất Thuế ghi:

Công minh chính trực Ô Diên địa,

Chủ tể quyền hành Phú Lộc trang.

Câu đối ở các miếu xóm khác lại rất đa dạng nhưng hầu hết có ý chung việc ngợi ca vị Thổ thần như:

Công minh chính trực linh thiên cổ,

Chúa tể quyền hành chấn nhất phương.

Với sự hàm ơn vị Thổ thần, người dân luôn tin cậy, cầu mong thần linh:

Bảo hộ thiên niên ninh hạp cảnh,

Phù trì vạn tuế phúc sinh dân.

Hay

Dân ngưỡng vọng nhất tâm đính lễ,

Thần giáng lâm vạn sự bình an.

* Thờ Thổ công

Người Việt Nam đã thờ phụng tổ tiên thì gia đình nào cũng có thờ Thổ công. Thổ công chính là vị thần trông coi gia cư, định sự họa phúc cho gia đình tín chủ. Nhờ Thổ công, các hồn ma quỷ không xâm nhập được để quấy nhiễu những người trong nhà.

Người ta có thể thờ nhiều vị thần khác tùy hoàn cảnh như Thần tài, Tiên sư, Tiền chủ.v..v.. nhưng Thổ thần là vị thần quan trọng nhất trong gia đình. Ngài là vị “Đệ nhất gia chi chủ” trên cả mọi vị thần khác.

Thổ công còn được gọi là Định Phúc Táo quân, tức là ông Vua Táo định phúc đức cho gia đình. Phúc đức này do sự ăn ở phải đạo hay trái đạo của gia chủ và của mọi người trong nhà.

Mỗi khi cúng lễ trong nhà, đều phải cúng Táo quân trước và xin phép ngài để các vị được cúng lễ có thể tới bản gia hưởng lễ.

Theo sự tích Táo quân, việc thờ Thổ công, lập ban thờ, bài vị Thổ công phải hiểu được không phải chỉ thờ một vị thần, mà ở đây là ba vị thần với ba danh hiệu khác nhau (hai ông một bà) do Thượng đế phong cho mỗi người giữ một việc.

Phạm Lang, người chồng sau là Thổ Công trông nom việc trong bếp với tên gọi Đông Trù tư mệnh Táo phủ thần quân (Trù, chữ Hán nghĩa là cái bếp).

Trọng Cao, người chồng trước là Thổ địa trông coi việc trong nhà với tên gọi là Thổ địa Long mạch tôn thần.

Thị Nhi, người vợ là Thổ Kỳ trông nom việc chợ búa cho đàn bà hoặc việc sinh sản mầu, vật ở vườn đất, với tên gọi là Ngũ Phương, Ngũ Thổ phúc đức chính thần

Ban thờ Thổ công thường đặt ngay ở gian bên cạnh bàn thờ tổ tiên. Dù bàn thờ giản dị thế nào cũng vẫn là một bàn thờ đủ biểu lộ sự thành kính của gia chủ đối với vị thần săn sóc gia cư mình.

Trong các ngày lễ tết, sóc, vọng hay giỗ chạp bao giờ cũng có lễ cúng Thổ công.

Đặc biệt, trong năm, ngày 23 tháng chạp là ngày Tết ông Công, ngày lễ cúng Thổ Công quan trọng nhất trong năm.

Theo tín ngưỡng cổ truyền, ngày tết ông Công, Thổ công lên chầu Thượng đế để báo cáo về những việc tai nghe mắt thấy ở trần gian.

Thổ công có nhiệm vụ thiêng liêng ghi chép tất cả mọi việc tốt xấu xảy ra trong một gia đình một cách khách quan và lên trời báo cáo với Thượng Đế một cách trung thực, đầy đủ nhất.

Giám minh thiện ác ti tam giới,

Lưu liệt trung tà đạt cửu thiên[29].

(Soi rõ thiện ác trông coi ba cõi.

Lưu chép từng loại trung tà tấu tới trời.)

Công tại Đế đình danh tại thế,

Quyền tư nhân mệnh ám tư thiên[30].

(Công lao với Thiên đình, tên tuổi lưu danh nơi trần thế,

Quyền hành chủ quản mệnh người, ngầm chủ cả trời.)

Trong tết Thổ công, sau khi cúng ông Công người ta hóa vàng, Đồng thời hóa cả cỗ mũ năm trước, gồm có mũ, áo, hia và vàng và thay thế vào cỗ mũ mới để thờ trong năm [31]. Mũ Thổ công là một cỗ ba chiếc, một đàn bà và hai đàn ông. Mũ đàn ông có hai cánh chuồn vút lên, còn mũ đàn bà không có hai cánh chuồn đó.

Mũ áo và hia Thổ công mỗi năm một mầu theo với ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

Năm nào hành kim thì mũ màu vàng.

Năm nào hành mộc thì mũ màu trắng.

Năm nào hành thủy thì mũ màu xanh.

Năm nào hành hỏa thì mũ màu đỏ.

Năm nào hành thổ thì mũ màu đen.

Tết Thổ công, ngoài sắm mũ mã, người ta còn mua tặng ông Công một hoặc ba con cá chép, con cá này là ngựa ông Công cưỡi, được phóng sinh ra sông hoặc ra ao sau lễ cúng. Dân ta quan niệm con cá sẽ hóa rồng (hay ngựa) để đưa ông Công lên chầu trời.

Tục thờ cúng ông Công, ông Táo giúp người đời khuyên nhủ nhau trẻ già trai gái trong mọi nhà phải thương yêu nhau, trên kính dưới nhường, sống trung thực, nhân hậu, thủy chung để năm nào cũng được ông Công báo cáo với Thượng đế những việc tốt của gia đình, mong được trời ban tài phát lộc, cuộc sống gia đình hạnh phúc ấm no.

Ngày nay, sống trong xã hội văn minh, tiến bộ, việc thờ cúng Thổ công và tổ chức tết Thổ công truyền thống vẫn được duy trì mang tính nhân văn sâu sắc.

* Thờ Thành hoàng

Thành hoàng còn gọi là Thần hoàng

Ở Trung Quốc, Thành Hoàng là thần của thành trì từ trung ương đến địa phương.

Khi tín ngưỡng thành hoàng du nhập vào Việt Nam, từ thời Bắc thuộc cũng làm nảy sinh ra một số thành hoàng mà chức năng cũng giống thành hoàng Trung Quốc, là thần bảo vệ các tòa thành.

Tuy vậy, trên đất Hạ Mỗ, xưa có thành Ô Diên nhưng không thấy có thờ Thành Hoàng theo nghĩa thần bảo vệ tòa thành Ô Diên mà chỉ thấy có việc thờ Thổ thần Ô Diên bản xứ. Còn từ năm 571, theo “Tiền lý Nam Đế đệ Bát Lang Hoàng Tử Dũng Nghị đại vương ngọc phả cổ lục [32] do Lễ Bộ hàn lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) đời vua Lê Anh Tông (1556-1573) thì Hậu Nam Đế Lý Phật Tử lệnh cho nhân dân Thượng, Hạ Mỗ lập miếu thờ “đền chính hóa tại làng Hạ Mỗ” nhà vua phong cho thần “Bát Lang Hy Minh Dũng nghị Đại Vương”.

Tờ trình của hương lý xã Hạ Mỗ ngày 12/4/1938 lên phủ Hoài Đức ghi rõ như sau [33]:

“Thành Hoàng hiệu ngài là Dũng Nghị đại vương, húy Bát Lang. Ngài là nhân thần.

Sự tích ngài là con thứ tám vua Hậu Lý Nam Đế làm tiên phong, đánh được Triệu Việt Vương lập ra nhà Hậu Lý.

Khi về thành Ô Duyên (Diên) khao quân lính xong ngài hóa đi mất, sau làng lập miếu ở nơi hóa ấy để thờ.

Ngày sinh là 12 tháng Giêng, ngày hóa 12 tháng tám. Chiều hôm Ngài hóa ấy có một phiến hồng quang rực cả một khu ấy là Ngài hiển thánh, còn đến đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê trong ngọc phả chép rằng: “Hộ quốc cứu dân anh linh rất rõ ấy là công đức của Ngài”.

Sự tích ngài chép trong Ngọc phả cổ lục của quan Đông các điện Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn ra tự Lê Hồng Đức, sắc phong mỹ tự nhiều lắm liền từ Lê đến bản Triều có niên hiệu rõ ràng”… [34] “Đồng thờ ngài có ông Lý Phổ Đỉnh giúp ngài trấn thành Ô Duyên, ông Đệ Nhị hoàng tử Nhã Lang tướng trung quân, vua Hậu Nam Đế đốc hậu quân đều giúp ngài đánh giặc cả [35], còn cự ngài là Triệu Việt Vương Quang Phục, hiện ngài có đền ở làng Đông Cao thuộc tỉnh Nam Định.

Khi còn sinh thời, ngài đã lập chính cung để ngài ở sau nhân đấy thờ ngài.

Trước khi thờ ngài làng không thờ vị nào nữa. Có thôn Hoa Chử làng Thượng Mỗ cũng thờ ngài.

Thờ ngài có thần tượng để thờ ở miếu. Có bài vị để rước về đình [36]. Tượng, vị đều ngồi ngai cả, mã rút bằng giây bạc, đai thêu bằng vóc hồng, hia thêu phượng, áo dệt rồng rất trang nghiêm.

Miếu nguyên xưa là gò Hạt Ngọc, nổi giữa đầm Hàm Rồng, thuộc về trong thành Ô Duyên nay có đê vòng sau miếu. Đình nguyên xưa là khu đất giữa làng.”

Qua bài thoại (nói chuyện) của bản xã Thành hoàng Lý Hoàng Tử Dũng Nghị đại vương trong Lễ Đồng giáng bút năm Đinh Mùi (1907) được ghi trong sách ‘Cổ kim truyền lục’[37], người dân hiểu và tin về thân thế sự nghiệp của vị Thành hoàng của mình:

“Ta là Hoàng tử thứ tám triều nhà Lý, trời sắc giáng xuống thế gian : Hạn định 20 năm phải chóng dẹp xong giặc nước. Vì vậy, ta cho một trận gió mây, gai góc trừ hết. Thắng trận trở về được 3 ngày, trời sai sứ giả áo đỏ xuống gọi ta về. Cho nên, vào nửa buổi sớm mây mù, thần ta mau chóng cưỡi mây đi vậy. Ở chốn này, chỉ còn để lại chính cung sở tại cái đai áo, cái thẻ làm tin của Ngọc hoàng cho ta để truyền lại một kỳ tích vậy” [38].

Mượn lời khen ngợi của Giám đàn Trương Tiên trong Cổ Kim truyền lục để ngợi ca đức Thành hoàng của mình như sau :

Nguyên soái Nam Triều,

Thành hoàng chủ tể.

Mặt rồng tư thế,

Hàm én oai phong.

Ra tay một trận,

Quét sạch như không.

Nam nhi dũng mãnh,

Bất khuất ngoan cường.

Với lòng thành kính trong văn tế giỗ Thánh (12 tháng tám) người dân luôn tỏ lòng kính trọng và cầu mong Thành hoàng luôn phù hộ độ trì cho dân làng:

“Kính cẩn, tưởng nhớ !

Đại vương là bậc thánh thần rất tinh túy, ngài rủ lòng soi sáng, dân được yên vui, mọi việc đều tốt, công ơn thật lớn lao. Mọi việc không bỏ sót, hoạn nạn được ngăn, tai ương được trừ khiến cho tất cả đều được đội ơn sâu, tiếng thơm được truyền tụng từ xưa đến nay, Miếu vũ còn mãi cùng trời đất.

Nay theo truyền thống ngày giỗ là lúc Đại Vương trở về, lễ nghi lại dâng lên, xin Đại vương chứng giám lòng thành, ngầm ban phúc cho trên dưới bình an vô sự, ngày thêm rực rỡ vẻ vang, cuộc sống nhân dân đều được thỏa lòng, mỗi năm lại thêm giàu sang.

Xin cúi đầu kính dâng !”

Trong văn tế nhập tịch, dân làng hết lời ca ngợi : “Đại vương dòng giống thiên thần, con cháu Đế Vương, cứng rắn từng trải, dũng cảm mạnh mẽ, dẹp loạn mưu giỏi, trị ác kế tài, sự nghiệp một thời, tiếng thơm muôn thuở.

Nay hội mùa xuân, gặp ngày sinh thánh, kỷ niệm công lao, kính cẩn tấu trình. Lễ nghi mọi mục, mong được soi xét, lễ bạc tâm thành, ngầm cho phúc ấm”.

Các đời vua triều đại phong kiến khi sắc phong cho ngài cũng kính trọng với những lời khen : “… Tài năng hòa thiện sánh kẻ sĩ thời Chu phù giúp sự nghiệp trời Nam. Ngự hoạn trừ tai phù giúp đất Hạ Mỗ được dân khang vật thịnh. Thờ tự như nhà Hạ, tôn sùng như nhà Chu. Vì đền thờ linh thiêng ngự hoạn trừ tai có công với dân nơi này. Nay quốc gia khôi phục, nhờ sức phù giúp của thần. Đáng gia phong nên gia phong là Bát Lang Hy Minh Dũng nghị trang uy mãnh liệt...” [39]

Nhân dân Hạ Mỗ từ xưa vẫn tôn vinh ngài là Vua. Vua của làng. Sự kính trọng Thành hoàng cũng thiêng liêng gần gũi như đối với cha ông tổ nghiệp.

Đối với dân chúng giữ đúng nền nếp từ kiêng kỵ tên hèm, đến mầu sắc trong y phục như quy định từ trước. “Hàng ngày không ai được mặc áo sắc vàng, sắc tía, lại cấm trong làng không ai được nuôi trâu bò lông đốm, lúc đọc, lúc nói phải kiêng âm “lang” đọc là “lương” ” [40]. Mọi công việc lớn của gia đình như hiếu, hỷ, làm nhà, thi cử đều có lễ trình Thành hoàng cầu mong ngài phù trì cho được hanh thông. Đặc biệt trong ngày sinh nhật ngài cũng là dịp hội làng mở, nhà nhà có lễ thờ dâng lên đức đại vương ở đình, miếu, đền trên, đền dưới…

Đối với tổ chức của dân làng chung sức xây dựng ngôi đình mang tên nhà nước Vạn Xuân, có quy mô cấu trúc đẹp như một cung đình. Đình là công trình có cấu trúc kiểu nội vương ngoại quốc (trong vua, ngoài nước), có thể nói là hiếm có độc nhất vô nhị ở nước ta. [41]

Ngoài đình và miếu, nhân dân Hạ Mỗ còn thờ ngài ở đền Chính Khí, đền Văn Hiến bằng bài vị, đền Tri Chỉ bằng tượng.

Hàng năm vào dịp kỷ niệm ngày sinh của Thành Hoàng, dân làng tổ chức lễ hội truyền thống đem lại niềm vui và sức sống mới cho toàn dân.

Thông qua việc thờ tự, gửi gắm tình cảm và lòng biết ơn đối với cả vương triều Tiền Lý, người Hạ Mỗ đã ghi nhận công lao sự nghiệp của vị Thành hoàng và các Vương tôn, những người trong dòng họ của nhà vua trong hoành phi câu đối.

Bức đại tự “Chính Khí” tại đền Chính Khí (ban đầu gọi là Thảo Bích Từ) nghĩa là cái chí khí mạnh mẽ, lớn lao của trời đất phú cho. [42]

Cùng hai vế đối bên bức đại tự là minh chứng cho ý chí tư tưởng của Tiền Nam Đế Lý Bôn, ông tổ nhà Tiền Lý :

Bắc Phương cạnh tú,

Nam nhạc chung thiên.

(Sao tranh phương Bắc,

Núi họp trời Nam.)

Đôi câu đối ở cột Đồng trụ đền Chính khí ghi :

Kỳ dịch Tràng An phưởng phất bách niên tiền tĩnh,

Càn khôn bất lão y hy thất miếu hậu cao.

(Những trận đánh lớn ở kinh đô nhiều năm trước chỉ còn thoảng qua đều đã yên ổn,

Tình nghĩa vua tôi còn mãi dẫu chỉ mường tượng không rõ ràng ở miếu thờ các tiên vương về sau luôn được quý kính).

Về Lý Thiên Bảo (tức Đào Lang Vương) anh Tiền Lý Nam Đế dẫn cánh quân thứ hai đánh quân Lương có đôi câu đối tại đình Vạn Xuân.

Ô Diên thành địa tịch dao kinh lễ nhạc y quan sở tụy,

Dã năng quốc thiên khai bảo tộ, bản chương thổ vũ đô quy.

(Thành Ô Diên đất mở kinh sư lễ nhạc y quan nơi tụ hội

Nước Dã Năng trời mở vận báu bản chương trời đất đều về)

Với Hậu Nam đế Lý Phật Tử, đôi câu đối ở đình Vạn Xuân nêu rõ :

Lý Hoàng thượng thượng đẳng linh từ, thùy tự điển ức niên như tại,

Thiên Nam trung trung hưng bảo tộ, dực Diên đô tứ kỷ vu tư.

(Đền thiêng Lý Hoàng Thượng thượng đẳng, ghi sử sách nghìn năm còn đó,

Vận báu thiên Nam trung trung hưng, che chở thành Diên bốn kỷ tại đây.)

Và tất cả đọng lại lời ca lịch sử thời Tiền Lý trên mảnh đất Ô Diên tươi đẹp :

Nam Đế Lý Triều, Quốc hiệu Vạn Xuân diên đình lưu Thánh tích,

Ô Diên cảnh thắng, Đô thành nhất thế quán tự hiển Thần linh.

(Nam đế Lý Triều, quốc hiệu Vạn Xuân đình mãi lưu thánh tích,

Ô Diên thắng cảnh, Đô thành một thời tế lễ hiển thần linh.)

Dân làng duy nhất cầu mong được đức thánh phù hộ độ trì cho dân, cho nước :

Thần uy diệu cổ kim, bàn thạch thái sơn phù quốc thế,

Thánh trạch quân thượng hạ, xuân đài thọ vực điện dân sinh.

(Uy thần chiếu sáng rực rỡ xưa nay, vững vàng tựa tảng đá Thái Sơn phù vận nước,

Ơn Thánh ban đều khắp trên dưới, đài Xuân cõi vững thỏa dân sinh.)

* Thờ cúng tổ tiên

Trong phong tục Việt Nam, việc thờ cúng tổ tiên cũng như các bậc thần linh là rất quan trọng.

Việc thờ cúng ấy không phải là một tôn giáo mà là một luật tục. Luật tục thường ra đời sớm hơn cả luật pháp và đã trở thành truyền thống bền vững trong nhân dân ta.

“Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản, ấy cũng là nghĩa cử của người”[43].

Ca dao :

Khôn ngoan nhờ đức cha ông,

Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.

Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu. Con người ta phải có tổ tiên mới có thể có mình được. Bỏ tổ tiên không thờ phụng tức là quên nguồn gốc, huống chi ông bà là những người đã sinh dưỡng cha mẹ và cha mẹ là những người đã sinh dưỡng mình.

Lúc ông bà cha mẹ còn sống, con cháu phải phụng dưỡng, phải tuân theo những lời dạy bảo của các người, phải lựa ý chiều chuộng, phải ăn ở sao cho ông bà cha mẹ hài lòng.

Khi ông bà, cha mẹ trăm tuổi, ngoài việc lo ma chay chôn cất, con cháu phải thờ cúng cũng như thờ cúng tổ tiên về trước. [44]

Từ xưa tới nay, người Hạ Mỗ đã giữ gìn truyền thống đó bởi ai ai cũng nhận thấy đó là nghĩa cử cao đẹp và cũng là lẽ tự nhiên của con người.

Thờ phụng tổ tiên từ sự tưởng nhớ tổ tiên [45] do lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà cụ kỵ đã khuất mà thôi.

Hiểu và tin như vậy, việc cúng lễ là cần thiết và việc thờ phụng tổ tiên không thể không có được.

Ở Hạ Mỗ việc thờ cúng tổ tiên thể hiện ở 3 việc cụ thể :

- Xây cất mộ phần

- Lập ban thờ

- Tổ chức giỗ chạp

+ Xây cất mộ phần

Dân ta có câu : “Sống về mồ về mả, không ai sống về cả bát cơm” và vì vậy việc chôn cất, xây đắp mộ phần là hết sức quan trọng.

Ngày xưa, mồ mả của nhà nào thường chôn cất trên ruộng đất của nhà ấy. Có trường hợp phải mua đất trị huyệt ở làng khác, huyện khác vì chọn được đất kết (mả kết)[46].

Bây giờ hầu hết mộ chí khắp nơi được đưa về tập trung tại nghĩa trang nhân dân theo gia đình, theo dòng họ. Do kinh tế phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng mộ phần ngày một khang trang bề thế. Những bệ thờ trong khu mộ từng chi hay cả họ, thậm chí của từng gia đình được trang trí đẹp đẽ. Hầu hết các bệ thờ có mái che trông rất hoành tráng. Ở đó người ta viết cả đại tự, câu đối đều nói lên lòng biết ơn tổ tiên của con cháu, khắc sâu công đức tổ tiên, sự quyết tâm giữ gìn mộ phần tiên tổ.

Nếu câu đối chữ Hán ghi để nhớ ơn và tưởng nhớ tổ tiên:

Phần hương tổ mộ ân tiền thế,

Bái vãn tiên phần tưởng cổ nhân.[47]

(Thắp hương trên mộ tổ nhớ ơn người đời trước,

Vái lạy viếng thương phần mộ nhớ tới người xưa.)

Thì câu đối nôm đinh ninh nơi tổ tiên yên nghỉ cũng là nơi con cháu lui tới viếng thăm, giữ gìn mộ phần tiên tổ:

Nơi tiên tổ ngàn thu yên nghỉ,

Chốn cháu con vạn thế viếng thăm. [48]

Và Công đức tiền nhân đời đời ghi tạc,

Mộ phần tiên tổ mãi mãi đắp bồi. [49]

Để giữ gìn phần mộ trong nghĩa trang cũng như ở các khu khác trên Đồng làng, Quy ước làng Hạ Mỗ 1994 tại điều 67 đã ghi: “Chăn trâu bò ở nơi nào phải giữ gìn nơi đó không để trâu bò ăn lúa, hoa mầu, làm gãy cây cối hoặc giẫm đạp mồ mả”.

Đúng như người Hạ Mỗ đã từng nói: “Khư khư như giữ mả tổ”, ấy cũng là hợp với lòng người.

Công việc tu sửa, trang trí mộ phần của người Hạ Mỗ diễn ra thường xuyên nhưng tập trung là vào dịp cuối năm. Đặc biệt, ngày 25 tháng chạp là ngày chạp mộ của cả làng. Đây là ngày đi tảo mộ, cúng tổ, ăn họ của tất cả các dòng họ. Ngày này tất cả con cháu dù đi làm ăn thậm chí định cư ở nơi xa cũng tìm cách trở về cùng gia đình, dòng họ đi thăm mộ phần tổ tiên cung thỉnh tổ tiên trở về cùng con cháu đoàn viên trong những ngày vui tết đón xuân về.

Một trong những khu mộ Tổ được xây dựng quy mô bề thế từ xưa với bức hoành “Thế bất thiên” (đời nối đời – đời đời không đổi), bia “Tổ địa bi ký” “Nguyễn Thế Tộc tổ địa bi ký” (Bia ghi về đất tổ họ Nguyễn Thế) tồn tại lâu đời trên Đồng làng là minh chứng cho ý thức và trách nhiệm của người Hạ Mỗ trong việc xây cất mộ phần.

Tấm bia “đất tổ họ Nguyễn Thế” có đoạn ghi rõ: “Hàng trăm đời nay họ Nguyễn vẫn là dòng họ chính. Họ tộc ta (tức họ Nguyễn Thế) cũng đã có từ xưa tới nay rồi. Vị tổ của họ ta triều Lê Cảnh Hưng đã trúng sinh Đồ khoa Nhâm Ngọ tức tú tài ngày nay. Hàng trăm đời nay đất này vẫn không thay đổi, đất ở nam Tân Kinh[50] (tức sông Đà, sông Hồng), bắc sông Nhuệ, ở xứ Cầu Cả, là mảnh đất tốt”.

Trong khu mộ tổ có mộ Thượng Tổ, Thủy tổ khảo và Thủy tổ tỉ. [51]

Bia do tổng sư Nguyễn Thế An thuộc chi Giáp trung là cháu đời thứ 7 viết, trưởng họ Nguyễn Thế Trọng cùng tham gia đính chính.

Ở Hạ Mỗ, những dòng họ lớn đều có nhà thờ và có cả khu mộ chí của Thủy tổ như “Tổ địa bi ký” của họ Nguyễn Thế.

Từ khi có hỏa táng [52], tro cốt của di hài người quá cố được chôn cất vào mộ chí chu đáo như khi cải táng trước kia.

Trong tương lai, việc xây dựng nhà để tro cốt sẽ được tiến hành một cách khoa học vừa trang nghiêm, vừa để thuận lợi cho việc bảo vệ và thăm nom của mọi người, mọi nhà.

+ Giỗ chạp

Sau khi ông bà tổ tiên, cha mẹ quy tiên đã mồ yên mả đẹp, con cháu hàng năm cúng giỗ vào ngày mất của các cụ.

Tục ta tin rằng dương sao âm vậy, người sống cần gì, sống làm sao thì  người chết cũng như vậy và cũng có một cuộc “sống” ở cõi âm như cuộc sống của người trên dương thế, nói khác đi, người chết cũng cần ăn uống tiêu pha nhà ở như người sống.

Tin như vậy, việc cúng lễ là cần thiết và việc thờ phụng tổ tiên không thể không có được.

Tục lại còn tin rằng vong hồn người khuất thường luôn ngự trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo dõi con cháu trong công việc hàng ngày và giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết.

Sự tin tưởng vong hồn ông bà cha mẹ ngự trên giường thờ có ảnh hưởng nhiều đến hành động của người sống. Nhiều người vì sợ  vong hồn cha mẹ buồn đã tránh những hành vi xấu và đôi khi định làm công việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng, xem công việc đó lúc sinh thời cha mẹ có chấp nhận hay không. Người ta sợ mang tội  bất hiếu làm cho vong hồn cha mẹ phải tủi hổ qua hành động của mình.

Và cũng vì vậy, nhiều gia đình luôn luôn quan tâm đến việc thắp hương lễ bái cáo gia tiên, xin tổ tiên ông bà cha mẹ và người thân đã khuất để mong được phù trì giúp đỡ trong mọi công việc của con cháu trong nhà hanh thông. Trong đó, việc cúng giỗ là hệ trọng hơn cả.

Một người chết thường có nhiều con cháu, nhưng ngày giỗ chỉ cúng ở nhà người con trai trưởng, hoặc nếu con trai trưởng đã chết, việc cúng giỗ được tổ chức tại nhà người cháu đích tôn.

Người con trai trưởng hoặc người cháu đích tôn là trưởng một ngành họ phải lo việc cúng giỗ của ngành (chi) họ nhưng những người con thứ, cháu thứ, những cháu ngoại cũng không thể bỏ giỗ ông bà cha mẹ mình được. Ngày giỗ, những người này đều phải tề tựu ở nhà người trưởng chi họ. Ngày giỗ các vị đã xa, vào hàng cao tằng (cụ, kỵ) thì con cái cháu chắt đề tựu ở nhà trưởng họ để làm giỗ.

Những người con thứ, cháu thứ, con gái, cháu, ngoại… trước ngày giỗ đều “gửi giỗ” bằng tiền mặt hoặc đem lễ vật đến cúng. Tiền mặt hoặc lễ vật nhiều hay ít thường do khả năng tài chính của từng gia đình hoặc do sự quan hệ xa – gần giữa người sống với người chết. Mặt khác còn do sự tổ chức cúng giỗ to hay nhỏ (giỗ dối), rộng hay hẹp của người trưởng sự. Nhưng quan trọng là ở tấm lòng người về dự giỗ. Trường hợp ở xa không về dự giỗ ở nhà trưởng được thì dù có gửi giỗ hay không cũng có thể làm giỗ ở nhà mình, gọi là cúng vọng vì quan niệm “Con ở đâu, cha mẹ ở đó”.

Ngày giỗ, ngoài con cháu người ta còn mời khách khứa thông gia. Khách đến “ăn giỗ” thường mang Đồ lễ tới cúng. Ngày nay, một số khách đến đám giỗ còn đem thẻ nhang và phong bì (tiền) vì không biết mua thứ gì cho hợp. Tất cả lễ vật này đều được đặt trên bàn thờ trước khi khách làm lễ. Khi khách làm lễ, gia chủ phải tự thân đáp lễ. Ngoài tính cách lễ nghi, việc này còn có liên quan đến trình độ kiến thức của con người Việt Nam và cũng là phép xã giao, phù hợp với hành vi đẹp của cách ứng xử văn hóa, thuật đối nhân xử thế theo quan điểm mới thời nay.

Trong thời buổi kinh tế, mọi người đều tất bật làm ăn nhất là con cháu đều mắc công việc ở cơ quan hoặc đi lao động thuê mướn. Người xưa đã từng nói “được bữa cỗ, lỗ buổi cày” (làm ăn). Do đó nhiều gia đình tổ chức cúng vào ngày chủ nhật để con cháu được nghỉ việc đến dự được đông vui. Tất nhiên đúng ngày giỗ gia chủ vẫn có lễ để cúng cụ vong. Đây không kể đến mục cúng thức (còn gọi là ngày tiên thường, có nơi gọi là cáo giỗ).

Việc cúng giỗ to hay nhỏ là phải xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể, tùy gia phong kiệm miễn là có tấm lòng thành. Ngày nay, dân ta hiểu rất rõ là sự cúng cấp là để tỏ lòng thành kính chứ không phải là “phụng dưỡng” tổ tiên, trước cúng sau ăn vẫn là dành cho người sống. Theo quan niệm hồn hoa, khói hương là cầu nối âm dương, tâm động quỷ thần tri là rất đúng đắn và khoa học. Cũng vì vậy mà không nên quá câu nệ về cỗ bàn. Người đời có nói “phú quý sinh lễ nghĩa” nhưng nhân dân ta lại nhấn mạnh “phú quý phải biết lễ nghĩa” là vì vậy.

Ngày giỗ là ngày kỷ niệm lúc lâm chung (ngày mất) của người quá cố. Hàng năm, anh em, con cháu, bà con họ hàng thân thích tưởng nhớ đến người đã khuất cùng nhau ôn lại cội nguồn, giáo dục truyền thống gia đình, như thế mới đúng ý nghĩa của ngày giỗ.

Ngày giỗ cũng là dịp gia đình, thân tộc gần gũi nhau, gắn kết với nhau bền chặt hơn. Qua giao lưu, mọi người chuyện trò, trao đổi kiểm điểm lại việc thực hiện di chúc của người quá cố, kể lại cuộc đời sự nghiệp của cha ông, nhắc nhở nhau làm cho tròn những điều ước vọng của người đã khuất.

Ngày giỗ có giỗ từng gia đình, có giỗ của từng chi và lớn hơn là giỗ họ, tức giỗ cụ thủy tổ của dòng họ.

Nhiều gia đình họp thành một ngành và nhiều ngành họp thành một họ. Mỗi họ có một ông tổ chung. Ngày giỗ ông tổ gọi là ngày giỗ họ hoặc giổ tổ họ.

Người trưởng tộc (trưởng họ) lo việc làm giỗ, nhưng tất cả các ngành (chi) trong họ đều phải góp.

Người trưởng tộc được hưởng của hương hỏa của tổ tiên để lại. Theo luật lệ và tập quán, của hương hỏa không được bán phải gây hoa lợi dùng trong việc tế tự và cúng giỗ.

Mỗi họ đều có một nhà thờ tổ, giỗ tổ cúng tại nhà thờ này. Nhưng vì một lý do hoàn cảnh nào đó, có họ đến nay không còn nhà thờ họ mà hoạt động của dòng họ đặt ở nhà chi trưởng, hoặc một gia đình trong dòng họ có điều kiện để tập hợp dòng họ theo sự thỏa thuận của dòng họ.

Ngày giỗ họ, không có mời khách khứa, chỉ có con cháu là con trai trong họ cúng lễ và ăn uống với nhau. Tuy không mời khách, nhưng vì con cháu đông nên ngày giỗ bao giờ cũng linh đình to tát.

Ngày giỗ họ là dịp duy nhất trong năm để cả họ họp mặt. Trong dịp này, các vị cao niên có hiểu biết thường kể cho con cháu nghe những công trạng, sự nghiệp của ông Tổ, có khi còn nêu các cá nhân, các gia đình trong dòng họ tiêu biểu nhằm nêu gương sáng của Tổ tiên, dòng họ để con cháu lấy làm vẻ vang về ông Tổ, về dòng họ mà cố noi gương.

Trong ngày giỗ họ, sau những nghi lễ và sau bữa ăn, các chi trưởng, có khi tất cả mọi thành viên trong họ cùng nhau họp bàn công việc của họ.

Dân ta có câu “Ăn có mời, làm có khiến”. Đối với người sống đã vậy, nhưng đối với người chết cũng vậy.

Ta thường nói “Tâm động quỷ thần tri” nghĩa là người có lòng thì quỷ thần chứng giám, nhưng quỷ thần có chứng giám cũng phải có hương đăng và cũng phải khấn mời để tổ tiên chứng giám và phối hưởng.

Thường thường trong ngày giỗ, con cháu khấn tên người mất được làm giỗ (ông bà, cha mẹ…) phải đầy đủ các yêu cầu sau:

1. Nói rõ người chết (được làm giỗ) là ông, bà, cha hay mẹ… của mình (người chủ sự làm giỗ).

2. Khi sống làm những việc gì (bạch đinh, quan viên hay lão nhiêu…)

3. Khi chết hưởng thọ bao nhiêu tuổi.

4. Tên thật là gì? (Tên thật còn gọi là tên húy), các tên khác như tên tự, tên hiệu, tên thụy là gì nếu có).

5. Tên hèm (còn gọi là tên cúng cơm, người ta đặt tên này vào lúc người hấp hối (sắp qua đời). Gọi là tên cúng cơm vì chỉ xưng tên này vào ngày cúng giỗ người ấy, khi đọc hết tên hèm thì kết thúc bằng hai chữ “chân linh”, nếu là người có chức sắc thì kết thúc bằng hai chữ “phủ quân”.

Khi đọc đến tên hèm thường đọc nhỏ, miễn là xướng tên đúng, đủ để người quá cố biết và trở về theo lời thỉnh mời của gia chủ (tức con cháu).

Vì trước đây, hầu hết chỉ ghi tên hèm để lại nên đời sau ít người biết tên thật, trừ trường hợp có gia phả ghi đầy đủ các tên gọi. Bây giờ và sau này chắc chắn phải ghi chép từ tên khai sinh.

Trong tế giỗ họ thì thường thường chỉ cần đọc tên hèm.

Đến nay, các họ chỉ khấn như đọc sớ, riêng họ Nguyễn Thế vẫn giữ được nếp có chúc văn trong buổi tế Tổ. Đương nhiên tên hèm của Thủy tổ không thể khác.

Bài văn vừa cụ thể, vừa xúc tích mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc xin trích dẫn đôi điều để mọi người tham khảo, suy ngẫm và nếu có thể thì vận dụng:

“Thiết nghĩ,

Cây có gốc rễ vững sum suê, sinh cành lá tốt xanh, sông nhờ nguồn sâu rộng, mở hóa dòng này nhánh nọ.

Cho hay,

Quả nhờ gốc quả nhiều, ăn thời phải nhớ.

Nước có nguồn nước lắm, uống chớ nên quên!

Nhớ tổ xưa,

Tích tại Lê Triều mở dòng nguyên phụ, thiếu thời hiếu học thông minh thí trúng sinh Đồ, khoa cử thanh danh quang hiển, sáng nghiệp mở đầu, đức hậu cao bồi.

Suy tôn thủy tổ chí nhân còn mãi, nước non công đức lớn như trời biển, tiên tổ mở mang đã bao năm kiệm cần từng mấy độ.

Nền nhân gây dựng đất Diên Thành bồi đắp nên cao, cây đức vun trồng, nước sông Nhuệ như bồi đã đủ, cháu con trong một họ đều nhớ công tổ triệu tôn bồi nối tiếp đã bao người nổi tiếng. Tiền Quang dụ bậu – nào khoa, nào bảng, sân hòe thềm quế, hương trời sực nức, đóa kim hoa nào quý, nào vinh. Phụng sắc thụ phong sắc nước điểm trang mầu đức thụ. Ấy bảo rằng tổ tiên mở mang từ trước, con cháu hưng thịnh đời sau, hậu sinh nay nối dõi cháu con dòng.

Còn ghi nhớ Tổ tiên công đức cũ, nghĩ đến chữ vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ. Nay nhân kính gặp húy Tổ tưởng ngày con cháu thành tâm.

Kính dâng lễ sớ, hương thơm ba nén, sực nức khói bay, chén rượu ba tuần kính dâng tiên tổ.

Tiên tổ phảng phất anh linh chứng giám soi lòng cảm mộ, mặc phù thế đại hưng thịnh bình an, vạn nghìn xuân cơ Đồ thêm rạng rỡ”. [53]

Ngày chạp mộ (25 tháng chạp) hàng năm của làng đã trở thành truyền thống một nét văn hóa tâm linh rất đáng trân trọng gìn giữ phát huy.

+ Lập nhà thờ, ban thờ tổ tiên

Để thực hiện đầy đủ công việc phụng sự tổ tiên thì ngoài việc chăm lo mộ phần thì còn phải duy trì việc cúng giỗ.

Đã nói tới ngày giỗ thì không thể không nói tới nhà thờ, ban thờ tổ tiên. Họ có “bản tộc từ đường”, họ to có nhiều chi, mỗi chi lại có “bản chi từ đường”. Còn từng gia đình thì lập ban thờ gia tiên của từng nhà.

Tại bàn thờ họ có bài vị của Thủy tổ họ, bàn thờ chi họ có bài vị của Tổ chi họ. Bài vị xưa ghi bằng chữ Hán, Thần chủ này không bao giờ thay đổi nên gọi đó là “Bách thế bách diêu chi chủ” (chủ của trăm đời, chủ của trăm lần tiên tổ đã quá xa, nghĩa là thần chủ mãi mãi). Ngày nay đã có người phiên âm chữ Hán viết thần chủ bằng chữ quốc ngữ.

Theo lệ từ xưa của người Việt, nếu họ nào, chi nào không có nhà thờ thì có thể xây một đài lộ thiên, dựng bia ghi tên thụy hiệu các tổ tiên. Mỗi khi giỗ tổ thì tổ chức cúng lễ, kể cả tế tự ở đó trong ngày giỗ tổ. Trong thực tế, có họ, chi họ khi không có nhà thờ riêng, thì người ta chọn nhà riêng của trưởng họ hay từng chi họ để lập ban thờ họ, chi họ ở đó. Còn ở nghĩa trang, từng chi, từng họ vẫn xây ban thờ để phục vụ cho các gia đình khi có việc ra làm lễ tại khu mộ của họ, của chi và của gia đình mình.

Thần chủ làm bằng gỗ táo, lấy nghĩa rằng cây táo sống lâu được nghìn năm. Thần chủ có hộp vuông che kín để trong lòng khám, chỉ khi nào có cúng tế mới mở ra.

Thường thường các gia đình không có bài vị ghi Thần chủ cụ thể mà chỉ thờ tượng trưng ở chiếc ỷ hoặc chiếc ngai tượng trưng sự tại vị của tổ tiên.

Ban thờ tổ tiên ở gian giữa. Đồ thờ trang trí rất phong phú và đa dạng. Nhưng trên tổng thể là rất trang nghiêm thể hiện lòng tôn kính của con cháu đối với tổ tiên.

Trên cùng nếu không có khám thờ thì có ỷ, có ngai đặt bài vị. Nếu không có cửa võng, thiều châu thì có y môn, song khai…

Tất cả những Đồ thờ tự như hương án, kỷ nhỏ, cây đèn, cây nến, ống hương, mâm bồng… xưa thường làm bằng gỗ mít sơn son thiếp vàng. Trừ  bình hương và lọ độc bình, song bình làm bằng sành hoặc sứ. Về sau thay cho Đồ gỗ trên nhiều nhà đã dùng Đồ thờ bằng Đồng gọi là những bộ tam sự, ngũ sự hay thất sự.

Trong bộ tam sự thì chiếc đỉnh Đồng thường thay thế cho bình hương nhưng thực tế người ta vẫn để cả đỉnh Đồng và bình hương mà bình hương vẫn là nơi thắp hương thường xuyên. Hai bên đỉnh là hai con hạc Đồng trên mỏ ngậm hai bông hoa trên đầu có chỗ cắm nến. Nếu là bộ ngũ sự thì thêm vào 3 thứ trên có 2 ống hương, còn bộ thất sự lại có thêm đôi cây đèn nữa…

Đơn giản hơn thì bất cứ ở gia đình nào, tùy hoàn cảnh mà sắm sửa. Nhưng tối thiểu không thể thiếu là chiếc bình hương và đôi đèn nến.

Những Đồ tự khí được coi là rất thiêng liêng, nghèo thiếu đến đâu cũng không ai dám đem cầm, bán.

Từ xưa, các bàn thờ tổ tiên thường có treo hoành phi, câu đối. Hoành phi và câu đối làm bằng gỗ sơn son chữ vàng, có chiếc sơn đen chữ đỏ hoặc vàng. Xưa kia những nhà bình thường, thường dùng tấm cót đóng nẹp rồi dán lên những tấm giấy đỏ có viết chữ như trên hoành phi câu đối gỗ.

Những chữ viết trên hoành phi tỏ lòng tôn kính của con cháu đối với tổ tiên hoặc để ca tụng công đức của tổ tiên, Đồng thời nêu lên những tình cảm, những ước vọng, sự hứa hẹn của con cháu nối tiếp truyền thống của cha ông. Có nhà có nhiều hành phi, nhiều câu đối nhất là ở các nhà thờ họ, nhà thờ của chi họ.

Những bức hoành phi thường thấy ở các gia đình như “Kính như tại” nghĩa là con cháu kính trọng tổ tiên, như tổ tiên lúc nào cũng tại vị ở trên bàn thờ; “Phúc mãn đường” nghĩa là gia đình đầy đủ, dư phúc đức; “Ẩm thủy tư nguyên” (uống nước nhớ nguồn)…

Đôi câu đối mà từ xưa đến nay, ở nhiều nhà đã dùng (nhất là những năm gần đây Đồ thờ hoành phi câu đối bằng mica được bán khắp nơi) cùng với bức hoành phi “Đức Lưu Quang” là đôi câu đối:

“Tổ công tông đức thiên niên thịnh,

Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương. (hay vạn đại vinh)”

(Công đức tổ tiên nghìn năm thịnh,

Hiếu hiền con cháu vạn đời sáng rõ vẻ vang.)

Tại các nhà thờ họ, thờ chi họ, hoành phi, câu đối với nội dung vô cùng phong phú và có ý nghĩa sâu sắc đối với con cháu từng dòng tộc.

Nhà thờ họ là nơi thể hiện sự hội tụ tinh hoa của tổ tiên về trước, con cháu lâu dài về sau đời đời phát triển.

“Ức niên hương hỏa tinh thần tụ,

Vạn thế chi lưu viễn phái trường.” [54]

(Mãi mãi việc thờ cúng tổ tiên, tinh thần luôn hội tụ,

Đời đời con cháu các chi phái bền lâu.)

“Nhân chi phồn diễn thiên thu mậu,

Đức thụ tài bồi vạn thế hinh.” [55]

(Cành nhân lo chăm sóc muôn đời tươi tốt,

Cây đức gắng vun trồng mãi mãi ngát hương.)

Khi nhắc tới dòng họ ở nhà thờ họ, người Hạ Mỗ luôn không quên cảnh trí và cũng là tình cảm chan hòa với quê hương

“Nhuệ Thủy tiền đường thanh tú sắc,

Diên thành hậu tổ phúc căn thâm.” [56]

(Sông Nhuệ chảy trước nhà (nhà thờ) nước trong cảnh đẹp,

Diên thành phía sau nhà thờ tổ, phúc vững rễ sâu.)

Và mỗi khi nghĩ tới dòng họ người người tự hào về dòng họ, về quê hương của mình. Và mỗi người đều thấy phải có trách nhiệm bản thân với dòng họ, với quê hương. Cùng với bức hoành “Mộc Bảo Lâm Gia” (cây báu rừng tốt) là đôi câu đối ở dòng họ Lê

“Lê Hữu tộc, hữu võ, hữu văn, viễn cận Đông Đoài hưng tự cổ,

Mỗ danh hương, danh tồn, danh tại, trung biên Nam Bắc thịnh nhi Kim.”[57]

(Họ Lê Hữu, có võ, có văn, xa gần Đông Tây hưng thịnh từ xưa,

Tiếng tăm làng Mỗ, có tiếng trong ngoài Nam Bắc đều phát triển đến nay)

Hay đôi câu đối nhà thờ chi họ Nguyễn Thế:

“Võ lược kế văn khoa ngũ đại tảo khôi cung đào lộ.

Nông công khai sĩ nghiệp hồi truyền tiệm nhạ lễ thi hương.”

(Văn võ kế tiếp 5 đời sớm khơi cung kiếm chọn đường đi tới.

Từ nghề nông mở mang học vấn phát triển nối truyền lễ, thi hương.)

* Thờ Tiên, Tổ

- Thờ Thần Nông

Người Hạ Mỗ từ xưa chủ yếu sinh sống bằng nghề làm ruộng. Từ trồng lúa nước trên các gò Đồi, soi bãi dần dần chuyển sang và chủ yếu là nghề trồng lúa nước.

Am Từ Vũ thờ Thần Nông vị Thần chủ chuyên coi nghề nông là chứng tích từ ngàn đời truyền lại.

Theo quan niệm dân gian, Thần Nông là vị Thần nông nghiệp của người Việt cổ trồng lúa nước, được coi là tổ tiên huyền thoại của vua Hùng. Theo truyền thuyết Thần Nông sinh ra Đế Minh, Đế Minh sinh ra Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân sinh ra vua Hùng.

Theo tín ngưỡng cổ, Thần Nông cũng là Thần Lúa.

Từ thời cổ đại, Thần Lúa được người Việt cổ thờ cúng với Trời và Thần Núi ở vị trí hiện nay của đền Hùng.

Sau khi dựng nước Văn Lang các vua Hùng từ kinh đô Phong Châu đến đây để tiến hành các nghi lễ. Sau khi Hùng Vương mất con cháu mới lập đền thờ ở đây gọi là đền Hùng.

Ngày nay ở đền Hùng thờ một hạt thóc bằng gỗ. Ngoài dân tộc Việt, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng thờ Thần Lúa [58].

Am Từ Vũ được xây dựng bên tả ngạn Sông Nhuệ, thuộc xứ Cầu Cả. Am xây gạch theo kiểu bàn thờ lộ thiên có tay ngai.

Hàng năm, vào vụ mùa, bắt đầu cấy khoảng đầu tháng Sáu âm lịch thì tế “Hạ điền”. Sau khi cấy xong khoảng trung tuần tháng Bảy thì tế “Thượng điền”, còn sau thu hoạch dân làng tế Thường tân, tục gọi Tết Xôi mới vào ngày10 tháng 10.

Ngoài tế lễ ở Am Từ Vũ còn có lễ tại đình, chùa, đền, miếu. Ở từng nhà đều sắm sửa lễ vật, cỗ bàn cúng gia tiên.

Hiện nay, hàng năm làng vẫn ăn Tết Xôi mới và tế Thần Nông tại đình. Ngày tổ chức có thể thay đổi tùy theo hàng năm cho phù hợp với công việc sản xuất.

Với lòng biết ơn vị Thần trông coi việc trồng lúa, đem lại cuộc sống ấm no cho con người từ xưa, trong văn Tế “Tiên Nông tế văn” [59]  có đoạn “Tiên Nông thánh đế, nãi thánh nãi thần, chí tinh chí túy. Tiên khai tịch nhân, hậu thế tác nghĩa. Tương địa cao đê, giáo dân thụ nghệ. Trạch cập tứ dân, ân thùy vạn thế, lịch chí vu kim…”

(Tiên Nông thánh đế, ngài là thánh thần rất tinh túy. Trước ngài mở mang đất đai ruộng nương; sau ngài tạo ra công ăn việc làm, trông coi tất cả ruộng thấp, nương cao, dạy dân thạo nghề trồng trọt. Công đức của ngài thấm tới mọi nơi, ơn đến muôn đời, trải khắp từ xưa đến tận ngày nay…)

- Thờ Khổng Tử

Từ xưa những người theo Nho giáo nói chung, các nhà giáo nói riêng đều tôn Khổng Tử làm thầy. Đó là người thầy tiêu biểu của muôn đời. Tại nhà Bái đường Văn Miếu Quốc tử giám Hà Nội có treo bức đại tự “Vạn thế sư biểu” (Người thầy tiêu biểu của muôn đời) với ý nghĩa ấy là sự trân trọng của người Việt Nam về người thầy như thế.

Hạ Mỗ là đất hiếu học, vốn có truyền thống “Tôn sư trọng đạo”. Hạ Mỗ thờ Khổng Tử tại đền Văn Hiến.

Sự du nhập và phát triển của Nho giáo vào Việt Nam kéo theo sự ra đời của hàng loạt các di tích thờ Khổng Tử, các bậc tiên hiền, tiên nho. Đó là hệ thống các Văn miếu, Văn từ, Văn chỉ từ trung ương đến địa phương. Theo quy định của nhà nước xưa:

- Văn Miếu là nơi thờ Khổng Tử và các tiên hiền, tiên nho ở cấp tỉnh và trung ương.

- Văn từ, Văn chỉ [60]  là nơi thờ Khổng Tử, các tiên hiền, tiên nho và các bậc khoa hoạn của địa phương tại các thôn, làng, xã, tổng, huyện.

Người Hạ Mỗ đã lập Văn chỉ thờ Khổng Tử từ lâu đời.  Văn chỉ trước đây được xây trên khu đất cao đầu làng nay thuộc đất khu Trạm y tế ở xóm Duyên.

Về sau khi làng có người đỗ đạt trong các kỳ thi nên làng được lập Văn từ. Vì Văn chỉ và Võ chỉ đều ở đầu làng phía Đông, nên khi lập Văn từ dân làng chuyển lên đầu làng phía Tây (tức khu vực đền Văn Hiến hiện nay) cho hợp sự cân đối giữa đền Hàng Văn và đền Hàng Võ theo trục đối xứng mà tâm đối xứng là đình Vạn Xuân.

Theo “Văn Hiến đường tự tích” đền Văn Hiến thờ khuê cung đại thành chí thánh Văn Tuyên Vương, tức Khổng Tử và Tứ phối, Thập triết [61] là những học trò xuất sắc của Khổng Tử.

Từ Văn chỉ phát triển lên thành Văn từ và sau đó trở thành đền Hàng Văn tức Văn Hiến đường, đền Văn Hiến vẫn thờ đức Khổng Tử, Tứ phối và Thập triết nhưng Đồng thời là nơi thờ các nhà khoa bảng của làng từ hai vị đại khoa là Thái học sinh vị Thái sư Tô Hiến Thành (đời Lý), Đệ nhị Giáp tiến sĩ (Hoàng giáp) đặc tiến Kim tử Vinh lộc thượng đại phu, nhập nội thị tả thị lang Đỗ Trí Trung (đời Lê) đến các vị trung khoa giám sinh, tiểu khoa sinh Đồ thời trước.

Đây cũng là nơi biểu dương khuyến khích việc học từ xưa tới nay.

Hàng năm, Hội tư văn và Bản đền Văn Hiến thay mặt cho dân làng thường tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của Khổng Tử vào ngày 27 tháng Tám âm lịch và ngày húy của Ngài vào ngày 18 tháng Hai.

Ngày xưa, việc tế lễ đức Khổng Tử ở Hạ Mỗ rất long trọng. Bởi đó là lòng biết ơn của người học muôn thuở với người thầy muôn đời.

Nòng văn trong “Chí Thánh húy văn” ghi rõ:

“Tố Vương [62], tổ thuật Nghiêu Thuấn [63], hiến chương văn võ, san định lục kinh, thùy huấn vạn cổ, tư đích húy kỳ, cung trần lễ số, Thượng giám chí thành, hạ thùy thiện dụ, học tiến tuần tuần, ngạn đăng bộ bộ, đạo thống đặc truyền, tư văn vĩnh thọ.”

(Đức Khổng Tử noi theo Nghiêu Thuấn, chế định điển chương văn võ, sửa sang sáu sách [64], đem lời dạy dỗ muôn đời. Nay theo đúng ngày húy, kính cẩn dâng lễ vật. Mong trên soi xét thấu lòng thành, dưới được rủ lời dạy bảo. Việc học tiến dần dần, bờ cao bước tới. Mối chính của đạo học được truyền, nền văn ấy còn tồn tại lâu dài mãi mãi. [65] )

NXV.TTTĐT

[1] - Theo Ngọc Phả đình Mai Dịch có đoạn ghi “Đến đời vua nối nghiệp là Lý Thái Tôn kế vị được 3 năm đủ các quan trong triều xét công ban thưởng cho trung thần tiết nghĩa giữ nối dòng dõi, sai Lễ bộ viết sắc phong cho thần (tức Lý Phật Tử) 147 đền thờ cấp cho ấp thang mộc, ủy thác cho Lễ bộ ban sắc phong, lập Miếu thờ”.

[2] - Câu đối ở Đình Vạn Xuân.

[3] - Ô Diên Cổ Thành  trong “Phong cảnh biệt chí” khuyết danh (dẫn theo Kỷ yếu Hội thảo Khoa học thành cổ Ô Diên. Hà Nội 2011 trang 36).

[4] - Trích thơ “Quá nhị Mỗ hương hoài cổ” của Ngô Thì Nhậm.

[5] - Cổ Kim truyền lục – Tập Nguyên – tờ 24,25

[6] - Bia ‘Kiến mưu phúc viễn thạch bi chi đồ’ (1680) ở đình vạn xuân có đoạn

“Hoàng thượng sống lâu muôn tuổi

Thánh chúa còn mãi ngàn năm.

Phó vương phủ thọ đến ngàn đời. Các vị đại thần văn võ bách quan đồng lòng hiệp sức, hưng khởi trị vì trong thời này. Lúc này vua sáng, tôi hiền. Đúng là thiên hạ thái bình…”

[7] - Bài giám đàn Lý Tiên Tán – tổ 1-mặt 2-Tập trinh - CKTL

[8] - Thơ thiền sư Nguyễn Trí Bảo

[9] - Cổ kim truyền lục- Tập Lợi- tờ 1 mặt 2

[10] - Cổ kim truyền lục – Tập Lợi- tờ 49 mặt 1

[11] - Câu đối cổng Đông của làng

[12] - Câu đối cổng Tây của làng

[13] - Theo “Từ điển Bách Khoa đất nước con người Việt Nam – Tập 2-NXB từ điển Bách Khoa. 2010 – trang 1548

[14] - Cổ Kim truyền lục – Tập Nguyên – tờ 51.

[15] - Xem “Tiên hiền vị” và “Khoa danh tương kế chi bỉ”.

[16] - Ban khuyến học xã và quỹ khuyến học các dòng họ khuyến học.

[17]  - Tên chùa: Hải Giác Tự (ngôi chùa mà ở đó sự hiểu biết rộng như biển). Theo quan niệm của đạo Phật, cuộc đời chìm đắm trong bể khổ “Trầm luân” thì tới đây sẽ trút bỏ được bởi nơi đây là biển giác.

Nếu đang ở bến mê thì tới đây được lên bờ giác.

[18]  - Thế kỷ VI, Hạ Mỗ có thành Ô Diên là kinh đô của Nhà nước Vạn Xuân, dưới triều vua Triệu Quang phục và Hậu Nam đế (Lý Phật Tử). Lịch sử phật giáo Việt Nam đã viết “nhiều người Việt Nam đã tự nguyện đến với đạo Phật, đã lấy các nguyên lý từ bi, luân hồi quả báo… của Phật để tu luyện mình và giúp đỡ người. Có người đã lấy danh nghĩa phật tử (như Lý Phật Tử) để tập hợp quần chúng chống sự thống trị của phương Bắc...

[19] - Theo “ Hồ sơ di tích kiến trúc – nghệ thuật chùa Hải Giác” của Ban quản lý di tích – danh thắng Hà Nội 1990.

[20] - Lấy từ câu châm ngôn: điểm thạch thành kim” (chỉ đá thành vàng), “điểm thiết thành kim” (Chỉ sắt thành vàng).

[21] - Xem thêm mục danh nhân.

[22] - Theo “ Thiền uyển tập anh”, tác phẩm ghi chép sự tích và tông phái Thiền học của Việt Nam từ cuối thời thuộc Đường, qua các đời Đinh, Tiền Lê đến Lý, Trần (theo bác học Phan Huy Chú)…

[23] - Xem thêm mục danh nhân.

[24] - Hai bức hoành tại đền Tri Chỉ.

[25] - Cổ Kim truyền lục – tập Nguyên – Tờ 2 mặt 2.

[26] - Trong tư nhân, trước đây có điện thờ đức thánh Trần của bà Đồng Uông Thị Hoan ở xóm Ngõ Ngoài. Đây là thanh đồng duy nhất có thầy cung văn Nguyễn Văn Hưởng (ông Thống Hưởng) phối hợp tổ chức các giá hầu đồng có tiếng trong vùng thời trước. Đến nay không còn.

[27] - Theo Việt Nam phong tục. NXB TT trang 278.

[28] - Bia “tiên hiền bi ký” tại nhà bia khoa tràng có ghi tên 5 vị giám sinh, trong đó giám sinh họ Nguyễn có 3 vị đó là: Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Tuấn và Nguyễn Danh Bính, Tại lễ đồng giáng bút năm Đinh Mùi ở chùa Hải Giác còn có Trị đàn  Thổ thần Trần tướng công tức Gián Nghị đại phu Trần Trung Tá, vị quan nhà lý cùng thời với thái úy Tô Hiến Thành (ghi trong Cổ Kim truyền lục- tập nguyên –tờ 45).

[29] - Câu đối ở bàn thờ Đức Táo đền Tri Chỉ.

[30] - Câu đối ở bàn thờ Táo quân – chùa Hải Giác.

[31] - Có nhà việc thờ mũ chỉ để tượng trưng trong ngày 23 tháng chạp, hoặc để thờ trong dịp tết Nguyên Đán xong là hóa đi, đến 23 tháng chạp năm sau lại tiếp tục sắm thờ.

[32] - Theo “Hà Đông tỉnh, Hoài Đức phủ, Từ Liêm huyện, Thượng Hội tổng, Hạ Mỗ xã thần tích”.Viện nghiên cứu Hán Nôm – Phòng bảo quản ký hiệu AE a.2/72.

[33] - Theo “ Thần tích – thần sắc làng Hạ Mỗ, tổng Thượng Hội, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông “Ký hiệu TTTS FQ 40 /11, 59 lưu tại Viện thông tin khoa học xã hội (hay thuộc Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam).

[34] - Tổng cộng có 40 sắc phong từ Hoằng Định thứ 4 (vua Lê Kính Tông) năm Giáp Thìn 1604 đến Khải Định thứ 9 năm Giáp Tý-1924.

[35] - Đền chính khí thờ tứ vị đại vương:

1. Hy Minh Dũng nghị đại vương

2. Biệt suý Phổ Đỉnh Đại Vương

3. Nhã Lang linh ứng đại vương

4. Diêm La Phật Tử đại vương.

[36] - Để rước Thành hoàng được trang trọng trong Hội làng, nhân dân ta đã tạc thêm pho tượng nhỏ để rước thay bài vị. Hiện long ngai bài vị để cố định ở Đình.

[37] - Câu đối tại đình Hoa Chử làng Thượng Mỗ ghi

Long hổ sơn trung truyền diệu quyết

Ô Diên thành ngoại hiển thần công

(Rồng hổ quanh mộ phần để lại cảnh ly biệt huyền diệu. Bên ngoài thành Ô Diên rõ ràng sự thiêng liêng mầu

nhiệm của thần)

[38] - Bài thoại (nói chuyện) Cổ Kim truyền lục – tập nguyên – tờ 24 mặt 1..

[39] - Sắc phong của vua Lê Kính Tông (1599-1619) ngày mồng 5 tháng hai niên hiệu Hoằng Định thứ 10 (1609).

[40] - Theo tờ trình của Hương Lý làng Hạ Mỗ năm 1938.

[41] - Lý lịch di tích kiến trúc nghệ thuật đình Vạn Xuân của Ban quản lý di tích và danh thắng Hà N ội 1990 ghi : “Giá trị lịch sử của di tích được thể hiện qua sự gắn bó, liên quan trực tiếp tới con người và sự kiện lịch sử diễn ra cách ngày nay gần 1.500 năm. Giá trị của di tích về mặt kiến trúc nằm ở vẻ đẹp, sự độc đáo hiếm thấy trong các ngôi đình cổ hiện còn”.

[42] - Tại đình Mai Dịch (phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy) có đôi câu đối :

Chính khí tác sơn hà tăng tráng quốc cường hình thế,

Anh danh chiêu nhật nguyệt trường thùy Diên chỉ càn khôn.

(Chí khí dựng sơn hà, nước lớn mạnh thêm nhờ ở địa thế,

Tiếng tăm vang ngày tháng, Ô Diên lâu bền bởi cậy đất trời.)

[43] - Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính – NXB VHTT – 2005 – trang 28

[44] - Quan niệm thờ phụng tổ tiên : Qua việc thờ phụng tổ tiên, tại Việt Nam, giới vô hình và giới hữu hình luôn luôn như có một sự liên lạc mật thiết. Sự thờ cúng chính là môi trường gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ thần linh. Đối với người Việt Nam cổ, chết chưa phải là chết hẳn, thể xác tuy chết đi nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn hẳng lui tới gia đình. Thể xác tiêu tan nhưng linh hồn bất diệt (Phong tục Việt Nam (thờ cúng tổ tiên)-Nhà XB KHXH 1991)

[45] - “Trong truyền thống tốt đẹp, dân tộc Việt Nam ta luôn giữ vững một truyền thống có ý nghĩa hay và đẹp vô cùng: Tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ những người đã có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước. Trong phạm vi của một tập thể nhỏ là làng, xóm, bao gồm nhiều họ, nhiều gia đình, cũng như trong cả nước. Dân tộc Việt Nam ta trọng đời sống tinh thần, đời sống tư tưởng và tình cảm của mình đều gắn liền hiện tại với quá khứ, quê hương nhỏ với tổ quốc và dân tộc. Từ đó mà giữ vững và phát huy những đức tính truyền thống tốt đẹp…”

Phạm Văn Đồng.

      (Đền Hùng, Di tích lịch sử Văn hóa đặc biệt Quốc gia – NXB VHTT.2010 – Trang 122)

[46] - Phần mộ tổ tiên được đặt nơi mạch đất tốt (theo thuật phong thủy) nên đưa lại nhiều may mắn cho con cháu, theo quan niệm dân gian.

Họ Lê đặt mộ ở Yên Kiện – Thạch Thất.

Họ Nguyễn Khắc đặt mộ ở núi Sài – Bắc Ninh.

[47] - Phần mộ họ Nguyễn Thế.

[48] - Phần mộ họ Nguyễn Xuân.

[49] - Phần mộ họ Nguyễn Khắc.

[50] - Tân Kinh () theo Văn Tân trong Từ điển Hán Việt thì Kinh () là sông Kinh. Sông Kinh phát nguyên ở Cam Túc chảy vào Thiểm Tây rồi nhập với sông Vị Thủy (Trung Quốc). Sông Kinh và sông Vị có mầu nước một đục một trong.

      Vậy Tân Kinh mà tác giả viết trong bia có nghĩa là sông Kinh mới, ám chỉ sông Nhĩ Hà, tức sông Hồng.

      Ở ngã ba Hạc Trì, nơi gặp gỡ ba con sông có 3 mầu nước khác nhau: sông Thao nước đỏ hồng, sông Đà nước nâu thẫm và sông Lô nước trong xanh. Nước ba sông Thao, Đà, Lô nhập vào rồi đổ vào sông Hồng.

[51] - Theo Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính thì “Bao nhiêu con cháu dòng dõi trong một họ lập chung một nhà thờ Thủy tổ gọi là Từ đường. Nhà thờ ấy chỉ thờ riêng một Thủy tổ, vì khi tế tự thì lấy các tổ tông biệt chi, biệt phái mà phối hưởng. Có họ không có nhà thờ thì xây một cái bàn lộ thiên, dựng bia đá ghi tên Thụy hiệu các tổ tiên để khi tế tự thì ra tại đó mà tế”.

[52] - Quy ước làng Hạ Mỗ (Giáp Tuất 1994) tại điều 59 cũng ghi:

“Khuyến khích hỏa táng, điện táng và các biện pháp vệ sinh trong khi bốc hài cốt nếu có điều kiện”.

[53] - Tư liệu do cụ Nguyễn Thế Đình (đã mất) cung cấp

[54] - 4- Các câu đối của nhà thờ các dòng họ Nguyễn Khắc, Nguyễn Đình, Lê dùng để minh họa.

[58] - Dẫn theo “Từ điển Bách khoa đất nước, con người Việt Nam – NXB Từ điển Bách khoa – 2010 – Trang 1628.

[59] - Tư liệu trong tập văn tế các tiết tại đình Vạn Xuân.

[60] - Đàn lộ thiên là văn chỉ, có lợp mái gọi là văn từ.

[61] - Tứ phối gồm 4 học trò xuất sắc của Khổng Tử; Thập triết: là 10 học trò thật xuất sắc của Khổng Tử tiêu biểu cho từng mặt: Đức hạnh, Ngôn ngữ, Văn học và chính sự. Một số vị trong Tứ phối và Thập triết đã giáng bút năm Đinh Mùi (1907) đã được ghi trong sách Cổ kim truyền lục.

[62] - Tân Đỗ Thư gọi đức Khổng Tử là Tố Vương nghĩa là “Không có chức tước gì mà thế lực như Vua vậy”. (Theo Hán Việt tự điển – Thiều Chửu – NXB Thanh niên.

[63] - Nghiêu Thuấn: Vua Nghiêu, Vua Thuấn là hai vị thánh hiền đời xưa. Câu đối ở Văn Miếu Quốc tử giám:

Phối nguyên khí ư tứ thời, hậu thiên địa chi sinh nhi tri Thiên địa chi thủy,

Khai học nguyên vu vạn thế, tổ Nghiêu, Thuấn chi đạo, nhi hiền Nghiêu Thuấn chi công.

( Phối hợp nguyên khí của bốn mùa (Khổng Tử), sinh ra sau trời đất, nhưng biết được sự khởi thủy của trời đất,

Mở nguồn học cho vạn đời, noi theo đạo Nghiêu Thuấn, nhưng có công làm rạng rỡ đạo Nghiêu Thuấn)

[64] - Sáu bộ sách đó là: Kinh thi, Kinh thư, Kinh dịch, Kinh lễ, Kinh nhạc, Kinh xuân thu.

Khổng Tử còn dạy người ta biết lục nghệ (sáu nghề): Lễ (lễ nghi), nhạc (âm nhạc), xạ (phép bắn cung), Ngự (phép cưỡi ngựa), thư (phép viết), số (phép tính).

[65] - Bản văn tế của làng Hạ Mỗ.