LỊCH SỬ - VĂN HÓA
2. Giáo dục, khoa cử
a, Giáo dục
Hạ Mỗ là đất hiếu học. Người Hạ Mỗ luôn có ý thức “tôn sư trọng đạo”
“Bất nhân phong quyển phù vân tận,
Tranh kiến thanh thiên vạn lý thu.”
(Không nhờ gió cuốn sạch mây mù,
Sao thấy trời xanh muôn dặm thu.) [1]
Trải qua các thời đại, dù ở hoàn cảnh nào Hạ Mỗ luôn là nơi thu hút nhiều thầy Đồ dạy học cho con em nhân dân. Các ông Đồ là người trong làng thường mở lớp ngay trong nhà riêng, có ông Đồ vừa bốc thuốc (thuốc bắc) vừa dạy học. Các ông Đồ là người nơi khác được mời về dạy cho con em cũng được đặt ngay tại nhà học trò.
Truyền thống tôn sư trọng đạo đã trở thành nếp sống của toàn dân. Các bậc phụ huynh luôn kính trọng thầy giáo và coi như thầy của bản thân và của cả gia đình mình. Đối với thầy thì “ sống tết, chết giỗ”. Đối với việc học thì chuyên cần vượt khó. Nhiều người học sắp sáng, sắp trưa để dành thời gian cho công việc Đồng áng. Mặc dù, vừa học vừa làm nhưng nhiều người vẫn thông thạo kinh sử, công thành danh toại giúp ích cho nhà, cho nước. Tiêu biểu cho tinh thần “nấu sử sôi kinh” của người Hạ Mỗ lớp trước, đó là Thái học sinh Tô Hiến Thành (đời Lý) Hoàng giáp Đỗ Trí Trung (đời Lê) cùng các giám sinh, sinh Đồ tú tài (Cuối Lê đầu Nguyễn), khi xưa đều được ghi tên trong bia Khoa Tràng (dựng năm Giáp Tuất 1874) để biểu dương công đức, nêu gương sáng cho con cháu học tập noi theo.
“Thanh hương hoa phát Diên Thành thụ.
Danh mặc phong truyền Nhuệ thủy văn.”
(Hoa nở thơm tho nhờ trồng trên đất Diên Thành.
Tiếng bút mực hay truyền đi nhờ sóng nước sông Nhuệ.)
Sự nghiệp giáo dục của làng từ trước Cách mạng Tháng Tám 1945, chúng ta không quên công ơn của đội ngũ nhà giáo, các cụ Đồ thời xưa.
Học trò các lớp xưa thường tặng thầy các bức đại tự như “Xuân phong tọa” hay “Xuân phong đường” (“Tòa gió xuân” hay “Nhà gió xuân”) và câu đối để tỏ lòng biết ơn thầy giáo của mình.
“Nhuệ thủy nhiễu thư đường tài bách nhân dư chiêm vũ hóa.
Diên Thành lưu giáo Trạch lịch thiên tải hạ ngưỡng sơn cao.”
(Nước sông Nhuệ chạy quanh nhà sách hơn trăm người đã cất cánh bay.
Diên Thành để lại công ơn dạy bảo qua ngàn năm ngẩng đầu nhìn núi cao.)
Tên tuổi các cụ Đồ đã khắc sâu trong tâm trí của người Hạ Mỗ nhất là các nho sinh trong làng. Đó là các cụ Đồ, các nhà nho như cụ Đồ Thỏ (tức Lê Vô Trần), cụ Đồ Liễu (Nguyễn Thế Thục), ba thế hệ cha con, ông cháu cụ Đồ Quế (Nguyễn Xuân Quế), cụ Đồ Thận (Nguyễn Xuân Thận), cụ Đồ Khải (Nguyễn Xuân Khải), cụ Đồ Phồn (Nguyễn Quang Diễn), cụ Đồ Thai (Nguyễn Thế Thái), cụ Đồ Sèng (Nguyễn Thế Trinh), cụ Đồ Bức, cụ Đồ Tốn, cụ Đồ Điễm, cụ Đồ Siển, cụ Đồ Thuế (Lê Hữu Thỏa)….
Sống trong cảnh nước mất nhà tan, dưới xiềng xích của bọn xâm lược và bè lũ tay sai,với lòng yêu nước, thương nòi, các cụ đồ Hạ Mỗ vốn trầm mặc trong cuộc sống thanh bần nhưng giàu lòng nhân ái, bất hợp tác với chính quyền thực dân. Với họ, chốn quyền môn phong kiến có lẽ không chứa được đức hạnh và phong cách của người thầy giáo. Dưới mái trường ấm cúng, bên cạnh học trò thân ái và bà con làng xóm hiền hòa, họ đã sống một cuộc đời thanh bạch không bị vướng bùn nhơ, ô trọc.
Bên cạnh khí tiết thanh cao, các thầy giáo còn luôn biểu lộ tính cương trực khẳng khái, không sợ quyền thế, khinh ghét, thói xiểm nịnh a dua. Họ giữ lòng trung nghĩa, chống lại mọi hành động phản bội, dù vì thế mà gây họa đến thân cũng vẫn cam lòng.
Dạy con cháu, dạy học trò tinh thần “Trung quân ái quốc” để sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu cứu nước cứu nhà.
Từ trong bóng tối bước tới chân trời cách mạng, trong cách mạng tháng Tám năm 1945, hầu hết gia đình các cụ Đồ là gia đình cơ sở kháng chiến, con cái của các cụ đều đứng trong đội ngũ tiên phong là những chiến sĩ cách mạng.
Nhà giáo, Bí thư Đoàn thanh niên cứu quốc đầu tiên Lê Kham (tức Lê Hữu Tục) là con trai cụ Đồ Thỏ; Nguyễn Thế Phục - Chủ tịch ủy ban Cách mạng lâm thời là con trai cụ Đồ Liễu; Nguyễn Quang Phồn - Chủ tịch Ủy ban KCHC, là con trai cụ Đồ Phồn; Nhà giáo Nguyễn Khắc Phảng - cán bộ Việt Minh và Nguyễn Thị Tiêu - Bí thư phụ nữ là con trai và con gái cụ Đồ Bức; Nguyễn Trí Khiêm - Bí thư chi bộ Thượng - Hạ Mỗ đầu tiên là con trai cụ Đồ Tốn; Nguyễn Duy Thái - Phó chủ tịch ủy ban KCHC xã Hồng Thái là con trai cụ Đồ Diễm; Lê Thao một trong những đoàn viên thanh niên cứu quốc, một cán bộ Việt Minh trong cách mạng tháng tám 1945 là con trai cụ Đồ Thuế…
Tiếp nối nền Nho học của các cụ Đồ khi trước, từ giữa thế kỷ XX về sau, nhà giáo Nguyễn Quang Dương con trai thứ cụ Đồ Phồn vẫn duy trì nếp dạy và nếp học. Theo những học trò chữ Hán ở Hạ Mỗ, đến trước hòa bình lập lại (1954) học sinh của thầy vẫn được học khá đầy đủ các sách kinh điển như “Sơ học vấn tân” (những vấn đề về thế giới và con người), “Hải Đồng thuyết ước” (về địa lý, luân lý đạo đức), đặc biệt sách “Đại Việt sử ký toàn thư” và bộ sách “Tứ thư” được học đến quyển 3 (Đại học, Trung dung, Luận ngữ).
Bên cạnh việc dạy chữ Nho, thầy lại dạy chữ quốc ngữ cho đến lúc nghỉ hưu. Điều đáng nói là thầy đã lựa chọn những vấn đề có liên quan đến vấn đề giáo dục lịch sử dân tộc, đến việc bồi dưỡng tư tưởng, đạo đức, nhân cách của người Việt Nam, ngoài chương trình giáo dục của Nhà nước bảo hộ.
“Sách chữ Nho từng chương thầy chọn,
Sách quốc văn thầy lựa từng bài.
Luân thường đạo lý ở đời,
Lợi nhà ích nước lựa lời bảo ban.” [2]
Hồi ký về nhà giáo Nguyễn Quang Dương, trong sách “Quê hương tuổi thơ” Tiến sĩ Lê Hữu Tỉnh đã viết: “Nếu làng Hạ Mỗ quê tôi mà dựng tượng đài về thầy giáo làng, một thầy giáo điển hình mẫu mực có nhiều đóng góp quý giá đối với việc khai tâm mở trí cho nhiều thế hệ học trò trong làng, lại được nhân dân một lòng kính trọng … thì người xứng đáng tôn vinh không ai khác chính là thầy giáo Nguyễn Quang Dương…”[3]
Từ nơi xa xứ, lúc tuổi 80, một học sinh cũ của thầy giáo Nguyễn Quang Dương khi gửi thư về Hội Đồng môn ở làng đã xúc động: “Điều làm tôi nhớ nhất và không bao giờ phai nhạt tại quê nhà là hình ảnh thanh nhã, đạo đức của thầy giáo chúng ta nơi làng quê. Cho đến lúc tuổi trưởng thành để nhớ lại, tôi mới biết thầy chúng ta sống trong nếp sống đạm bạc, dựa trên đôi vai của cô giáo người mặc áo dài nâu tứ thân bán gạo ở chợ nuôi chồng con. Tôi cũng nhớ lại, phong tục làng quê chúng ta, mọi người chỉ vái lạy tổ tiên đã khuất và thầy giáo chứ không lạy ông bà cha mẹ còn sinh tiền bao giờ. Có thể vì tục lệ phong kiến đã bị đánh đổ này mà các thầy cô có thể hy sinh cả cuộc đời trong cảnh liêm khiết, nghèo nàn để dạy học. Không biết các bạn còn nhớ không? Riêng tôi mỗi lần đến trường hoặc trở về nhà đều cúi đầu vái lạy thầy như vái lạy tổ tiên. Nhờ tôi học vỡ lòng chữ Hán thầy dạy, nên khi trưởng thành có dăm ba chữ để đi vào con đường học hỏi, thơ văn, tiêu khiển lúc tuổi già, thay vì đi tìm các thú vui khác”. [4]
Ngày nay, nối tiếp truyền thống cha ông, người Hạ Mỗ, các thế hệ giáo viên, học sinh không ngừng phấn đấu “thi đua dạy tốt, học tốt” giữ vững danh hiệu “Trường đạt chuẩn quốc gia”. Năm nào cũng có nhiều học sinh thi đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng, số giáo viên học sinh giỏi cấp huyện, cấp thành phố mỗi năm một tăng. Phong trào khuyến học, khuyến tài trong toàn dân đang phát triển, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục đào tạo trong làng, trong xã tiến lên toàn diện, vững chắc, xứng đáng với truyền thống “Đất hiếu học, đất trọng thầy công thành danh toại xưa nay đã nhiều”.
b, Khoa cử
Về con đường học hành thi cử của người Hạ Mỗ từ xưa cũng là một truyền thống đẹp. Trong “Từ Liêm Huyện, Hạ Mỗ xã khoa nghiệp tân bi ký” (Bia ghi lại những tấm bia mới về sự nghiệp khoa cử tại xã Hạ Mỗ, huyện Từ Liêm) dựng tháng chạp năm Mậu Dần 1818 đã viết: “Làng ta được hưởng khí tốt của sông Hát, được chung đúc bởi tinh hoa của dòng Nhuệ Giang. Là nơi địa linh nhân kiệt, nền văn thấu suốt từ xưa, người trong nước đều biết tiếng. Những năm tháng xa xưa lâu đời muốn biết cặn kẽ thì chẳng biết căn cứ vào đâu mà khảo cứu. Từ giai đoạn tiếp theo [5] cho đến nay, những vị có sự nghiệp lớn đỗ đạt cao như Tứ trường, Tam trường nhan nhản rất nhiều hơn hẳn các vùng lân cận”. [6]
Trong bia “Tiên hiền vị” (Các vị tiên hiền) có khắc đôi câu đối:
“Tiểu thành, đại thành khoa đệ biệt đăng tư phúc ấm.
Thu thí, Xuân Thí khoa thứ lịch trúng chư tiên sinh.”
(Xuân Thu khoa cử lần lượt rõ ràng các tiên sinh trúng tuyển.
Lớn nhỏ công thành cũng nhờ phúc ấm thứ bậc được nêu danh.) [7]
Theo thống kê trong Bia Khoa Tràng từ cuối thời Lê Trung Hưng (1533 – 1788), từ khoa thi năm Nhâm Tý (1672), đời vua Lê Gia Tông niên hiệu Dương Đức nguyên niên đến khoa thi năm Quý Mão (1783) đời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34, cả làng có 5 giám sinh, [8] 22 sinh Đồ, nho sinh.
Từ khoa thi năm Đinh Mão (1807) niên hiệu Gia Long 6 đến khoa thi năm Nhâm Tý (1852) niên hiệu Tự Đức 5 có 2 sinh Đồ và 2 tú tài. Nhưng sau đó, khoảng thời gian 39 năm im hơi lặng tiếng trên đường khoa họan từ khoa thi Mậu Ngọ (1858) khi thực dân Pháp chính thức cuộc xâm lược nước ta và cũng là thời kỳ mở đầu cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam Nam chống chủ nghĩa thực dân xâm lược Pháp, đến khoa thi Đinh Dậu (1897) cả 21 khóa thi, Hạ Mỗ không có người dự thi. Phải mãi đến khoa Canh Tý (1900) mới có Nguyễn Duy Hàn đậu cử nhân năm 35 tuổi, người viết bài tán, tựa, bạt Bộ sách Cổ Kim truyền lục (mở đầu tập Nguyên).
Phải chăng trong những năm ấy, thầy trò Hạ Mỗ đang âm thầm, lặng lẽ rèn chữ, rèn tâm để hưởng ứng cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tập trung trong cuộc nổi dậy của nghĩa quân Hạ Mỗ, dưới sự lãnh đạo của nhà yêu nước Sư Tổ Thích Thanh Trang (1885 – 1889) cùng sự ra đời sách Cổ Kim truyền lục sau lễ Đồng giáng bút năm Đinh Mùi (1907).
NXV.TTTĐT
[1] - Thơ Trí Bảo Thiền sư (Nguyễn Trí Bảo). Thơ văn Lý Trần NXB KHXH – Hà Nội -1977.
[2] - Trích lời điếu của đồng môn sinh Hạ Mỗ trong lễ tang thầy giáo Nguyễn Quang Dương ngày 19 tháng 3 năm 1985 (tức 28 tháng Giêng Ất Sửu).
[3] - Quê hương tuổi thơ – Lê Hữu Tỉnh – NXB Kim Đồng2015.
[4] - Trích thư của ông Hạ Bổng ngày 26 tháng 10 năm 2001 từ Washington, Thủ đô Hoa Kỳ.
[5] - Có lẽ ý nói từ thời Lê đến nay.
[6] - Thuộc các Bia Khoa Tràng.
[7] - Thuộc các Bia Khoa Tràng..
[8] - Việc lập Văn Miếu năm 1070 và Quốc Tử Giám năm 1076 là những sự kiện quan trọng, đặt cơ sở cho sự ra đời của nền giáo dục thi cử Việt Nam nói chung và nền giáo dục Đại học nói riêng …. Đến đây, Văn Miếu Quốc Tử Giám đã thực sự trở thành trung tâm giáo dục cao nhất của Đại Việt. Đây không chỉ là nơi học tập của các nhà quản lý, lãnh đạo đất nước tương lai, mà việc giáo dục đã được mở rộng và có quy củ… Nho sinh đến đây học tập để chuẩn bị tham gia các kỳ thi đại khoa giành học vị tiến sĩ, học vị, học thuật cao nhất lúc bấy giờ … Ngay năm đầu lên ngôi 1428 vua Lê Thái Tổ đã chọn con cháu các quan và con nhà thường dân tuấn tú vào Quốc Tử Giám làm giám sinh …” “Văn Miếu Quốc Tử Giám và hệ thống di tích Nho học ở Việt Nam” - Kỷ yếu hội thảo khoa học Hà Nội 2009(trang 91 – 92).