GIới thiệu chung
Xã Hạ Mỗ thuộc huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội, phía Bắc giáp xã Hồng Hà, Đông giáp 2 xã Liên Hồng và Liên Hà, Tây giáp 2 xã Trung Châu và Thượng Mỗ, Nam giáp xã Tân Hội. Diện tích tự nhiên 377,5 ha, dân số tính đến 30/6/2020 là 9.112 nhân khẩu với 2.406 hộ gia đình. Xã Hạ Mỗ hiện nay chia thành 2 làng Hạ Mỗ và Trúng Đích với 10 cụm dân cư: Cụm dân cư số 1 đến cụm dân cư số 8 thuộc làng Hạ Mỗ, cụm dân cư số 9 và số 10 thuộc làng Trúng Đích.
Hạ Mỗ là một vùng đất cổ, ở đầu nguồn sông Nhuệ cổ (hay còn gọi là sông Từ Liêm), một phân lưu của sông Hồng. Trước hoặc sau cuộc khởi nghĩa chống quân Lương Tùy, Hạ Mỗ có tên là trang Phú Lộc. Đến thế kỷ thứ VI Hạ Mỗ lúc đó có tên là Hương Ô Diên thuộc huyện Vĩnh Khang, phủ Ứng Thiên đời Lý và có thành Ô Diên một thời là Kinh đô của nhà nước Vạn Xuân dưới triều Hậu Nam đế Lý Phật Tử. Đến thời Trần thuộc huyện Vĩnh Thuận (hoặc Từ Liêm) phủ Đông Đô. Từ đầu thế kỷ XIX, Hạ Mỗ thuộc tổng Thượng Hội, còn Trúng Đích thuộc xã Liên Trì tổng Thượng Trì, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Từ đầu thế kỷ XX, Hạ Mỗ và Trúng Đích thuộc huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông.
Từ sau Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Hà Mỗ thuộc xã Hồng Thái (nay là 3 xã Thượng Mỗ, Hạ Mỗ, Hồng Hà), còn Trúng Đích thuộc xã Liên Trì, huyện Liên Bắc (trước năm 1953), huyện Đan Phượng (từ 1953 trở về sau) tỉnh Hà Đông.
Từ năm 1956, hai làng Hạ Mỗ và Trúng Đích sáp nhập thành một xã và vẫn lấy tên là Hồng Thái . Từ năm 1972, xã Hồng Thái đổi tên là xã Hạ Mỗ thuộc huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông, sau thuộc Hà Tây (1965), Hà Sơn Bình (1976), Hà Nội (1979), Hà Tây (1991), từ 01 tháng 8 năm 2008 đến nay thuộc thành phố Hà Nội.
Quê hương Hạ Mỗ là nơi sinh ra những người con ưu tú như:
Thiền sư Trí Bảo ( Nguyễn Trí Bảo) nhà lý luận xuất sắc thuộc thế hệ thứ 10 dòng Thiền Quan Bích của Phật giáo thời Lý. Thái úy, Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự tước Vương Tô Hiến Thành (1102-1179). Hoàng giáp Đỗ Trí Trung (1439 -?), thành viên trong hội Tao Đàn dưới triều vua Lê Thánh Tông. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - liệt sĩ Lê Thao (1929 – 1950). Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sư cụ Thích Thanh Trang, trụ trì chùa Hải Giác là Hữu quân Chánh tướng của phong trào chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX và đã anh dũng hy sinh trên mảnh đất này.
Xã Hạ Mỗ hiện có 2 đình, 2 miếu, 2 chùa và 3 đền.
Đình Vạn Xuân, Miếu Hàm Rồng và đền Chính Khí thờ thần Bát Lang và các nhân vật lịch sử có liên quan với thành cổ Ô Diên như Hậu Nam đế Lý Phật Tử, Nhã Lang Vương, Biệt Súy Phổ Đỉnh.
Miếu và đình Trúng Đích thờ Hoàng tử Đông Chinh Vương, con vua Lý Thái Tổ (1010-1028) có công dẹp giặc ở Châu Văn ( Lạng Sơn).
Đền Văn Hiến, xưa là văn chỉ thờ Khổng Tử và là nơi biểu dương các danh nhân khoa bảng và tưởng niệm những người con ưu tú đã làm rạng rỡ cho quê hương, đất nước. Năm 1179 Thái úy Tô Hiến Thành qua đời nhân dân xây mộ và thờ ông tại đây. Đền Văn Hiến còn phối thờ Hoàng giáp Đỗ Trí Trung.
Đền Tri Chỉ, xưa là võ chỉ, thần chủ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Tháng 10 năm 1991, Đình Vạn Xuân, Đền Văn Hiến, Chùa Hải Giác đã được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc Gia. Hiện nay các Di tích trên địa bàn xã còn lưu giữ, bảo tồn được nhiều di vật cổ có giá trị như: Chông, Khánh, Tượng, Thần tích, Thần sắc…đặc biệt Hạ Mỗ còn bảo tồn được bộ Mộc bản “Cổ kim truyền lục”, đây được coi là “Báu vật” của làng Hạ Mỗ. Tháng 12 năm 2020, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội công nhận Hạ Mỗ là điểm đến Du lịch thành phố Hà Nội.
Là một xã thuần nông, cũng như bao vùng miền khác, Hạ Mỗ đã có những nghề truyền thống và những sản vật nổi tiếng như:
Ren (còn gọi là Gien vơ ni): Đây là một nghề độc đáo, đến với Hạ Mỗ từ rất lâu. Đã từng có thời người dân Hạ mỗ đi khắp nước để dạy nghề. Tuy nhiên, do thị trường xuất khẩu bị bó hẹp nên nghề này đến nay đã bị mai một.
Nổ nén: Một loại bánh khá độc đáo làm bằng gạo nếp rang trộn với mật mía, nén lại thành khối vuông thường làm để ăn vào dịp Tết.
Rượu: Nghề làm rượu ở Hạ Mỗ đã tồn tại từ bao đời nay và ngon có tiếng. Đây là loại rượu rất thơm, có độ cồn cao (tối thiểu 48% độ cồn) nhưng không bao giờ khiến người uống bị đau đầu. Chất lượng luôn ngon nhất vùng có lẽ cũng bởi bản chất thật thà của người dân ở đây.
Nem: Khác hoàn toàn với nem Phùng (một loại nem nổi tiếng khác cũng ở huyện Đan phượng) được làm từ bì lợn, nem Hạ Mỗ có thành phần chủ yếu là thịt nạc loại ngon nhất và nem thính nên ăn rất ngọt. Loại nem này chỉ xuất hiện trong các đám hiếu, hỉ trong làng.
Đậu phụ: Đậu phụ Hạ Mỗ ngon nổi tiếng, hàng ngày cung cấp một số lượng lớn cho thị trường Hà Nội. Đặc điểm bìa đậu(dân địa phương gọi là khăn đậu)to, mềm nhưng không nát. Dù rán, nướng hay ăn ngay vẫn cảm thấy vị béo ngậy. Đây là bí quyết nhà nghề và do nguồn nước địa phương đã tạo nên chất lượng của sản phẩm.
Cháo xe (xoe): Món cháo làm bằng bột gạo, xoe lại thành miếng tròn, dài rồi nấu với thịt sườn loại ngon. Món này thường được dùng vào bữa tối ngày cưới để đãi anh em trong gia đình, bạn thân và khách quý.
Bột sắn dây: Bột sắn Hạ Mỗ ngon nổi tiếng do kinh nghiệm lâu năm. Hiện nay do hàng giả quá nhiều nên các gia đình làm sắn dây không còn mặn mà với nghề này nữa. Trong làng chỉ còn ít gia đình vẫn cố gắng giữ lấy nghề.